Tranh dân gian ngày Tết

.

(Baoquangngai.vn)- Trong tất cả các loại tranh tết Việt Nam, có lẽ đa dạng và độc đáo nhất là tranh dân gian. Nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống, nhất là mỗi khi tết đến xuân về.

Tranh dân gian gồm hai loại, tranh Tết và tranh thờ. Tranh dân gian có nguồn gốc từ rất xa xưa được giữ gìn, bảo tồn và phát triển qua các giai đoạn lịch sử của đất nước. Tranh dân gian không những là tài sản riêng của các làng tranh mà còn là tài sản chung của cả dân tộc. 

 

 

 

Theo các tài liệu còn ghi chép lại, trên cả nước có nhiều làng làm tranh truyền thống, nhiều dòng tranh dân gian khác nhau, nhưng lâu đời và nổi tiếng hơn cả vẫn là tranh Đông Hồ (Hà Bắc cũ), tranh Hàng Trống (Hà Nội), tranh Kim Hoàng (Hà Tây), tranh Nam Hoành (Nghệ An), tranh làng Sình (Huế).

Do nhu cầu của tục chơi tranh Tết và thờ cúng, tranh dân gian phải có số lượng lớn nên người Việt Nam từ lâu đã biết đến kỹ thuật khắc ván để in. Vào thời Lý (thế kỷ 12) đã có những gia đình chuyên làm nghề khắc ván. Cuối thời Trần đã in được tiền giấy. Đến thời Lê Sơ lại tiếp thu thêm kỹ thuật khắc ván in của Trung Quốc và cải tiến thêm một bước nữa. Cũng từ đây, trong dòng chảy của mỹ thuật truyền thống – dân gian bắt đầu có sự phân hóa để ngày càng phát triển đậm nét.

 

Đến thế kỷ 18 – 19 tranh dân gian Việt Nam đã ổn định và phát triển cao. Bảo tàng Lịch sử (Hà Nội) còn giữ được những ván khắc từ thời Minh Mạng thứ 4 (tức 1823). Địa bàn làm tranh dàn trải trong cả nước. Dựa theo phong cách nghệ thuật, kỹ thuật in vẽ và nguyên vật liệu làm tranh, có thể quy về một số dòng tranh gọi theo tên những địa danh sản xuất.

 

Trong giao lưu văn hoá, tranh dân gian Việt Nam vừa phát triển những vốn quý của các thời trước tích tụ lại, vừa tiếp nhận những tinh hoa của các dòng tranh khác để rồi khẳng định những gì thích hợp với dân tộc, làm phong phú hơn bản sắc của mình.

 

Ngày nay, tranh dân gian đã bị tranh hiện đại lấn át, hầu hết đã thất truyền. Tuy nhiên, có một dòng tranh vẫn còn tồn tại trước những thử thách của thời gian, như tranh Đồng Hồ. Dòng tranh này không những có chỗ đứng ở trong nước mà nó đã và đang có mặt ở nhiều nước trên thế giới như Nhật, Pháp, Mỹ…

Tranh Đông Hồ, từ tranh vẽ đến tranh in thủ công, đều mang một phong cách riêng. Từ các khâu như vẽ mẫu, khắc bản in, sản xuất và chế biến màu rồi đến in vẽ tranh, đều có những khác biệt hợp thành cái độc đáo về kỹ thuật, mỹ thuật của một dòng tranh. Màu in tranh ở đây được chế biến từ nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên: màu trắng từ sò, điệp; đen từ than rơm hay lá tre; hồng từ gỗ vang; đỏ từ son; xanh từ gỉ đồng; lam từ lá chàm; vàng từ hoa hoè, quả dành dành… Kỹ thuật pha màu và in của tranh làng Hồ tạo cho sắc tranh trong sáng, óng xốp.

 

 

 

Ở phố Hàng Trống (Hà Nội) cũng có nhiều người làm tranh dân gian, nhưng chủ yếu là vẽ tranh thờ (hổ, rồng, thần, thánh…). Họ làm bằng kỹ thuật kết hợp đường nét in đen từ bàn khắc gỗ với việc tô màu phẩm bằng tay. Nghệ sỹ vẽ tranh dùng bút màu quét phẩm nước, tạo nên những gam màu đậm nhạt lung linh.

Mỗi bức tranh dân gian đều mang một ý nghĩa nhân sinh riêng, biểu hiện nhiều góc độ tâm trạng của con người. Dễ thấy nhất là tranh vẽ đàn gà, tượng trưng cho tình mẫu tử và sự sum họp đông vui. Tranh mẹ con đàn lợn tượng trưng cho cuộc sống no ấm và cảnh chăn nuôi ở nhà nông.

Tranh gà trống sặc sỡ và oai vệ, tượng trưng cho ý chí kiên trung, bất khuất của trang nam nhi quân tử và cũng thể hiện cho 5 đức tính quý của con người: văn (vẻ đẹp – mào gà); vũ (cứng rắn – cựa gà); nhân (lòng thương yêu đồng loại – khi kiếm được mồi luôn gọi đàn đến cùng ăn); dũng (sức mạnh – gặp kẻ thù thì kiên quyết chống lại); tín (hàng ngày báo giờ rất đúng).

 

 

 

Tranh dân gian cũng đã có số lượng khá nhiều về đề tài lịch sử như bà Trưng Trắc cưỡi voi xung trận, Ngô Quyền đánh Nam Hán, Đinh Bộ Lĩnh cờ lau tập trận… Đó là những bức tranh tạo nên sự hùng tráng và niềm tự hào dân tộc. Ngoài ra, có những bức tranh được đặc biệt yêu thích như tranh Phú quý (đứa bé tóc trái đào giữ con vật), Vinh hoa (cậu bé ôm con gà trống), Thất đồng (7 cậu bé hồn nhiên hái quả), Tứ tôn vạn đại (4 cậu bé nô đùa với những dây bầu trĩu quả)…

Tuy nhiên, dù là dòng tranh dân gian nào cũng có một điểm chung là đều mang ý nghĩa chúc tụng, thể hiện ước vọng, mong chờ ở một năm mới sắp đến. Vì thế, khi mỗi bức tranh Tết của năm cũ được gỡ xuống, tranh mới được treo lên là nhằm hàm ý “Tống cựu, nghinh tân”, hy vọng đón bình an, vinh hoa, phú quý về nhà.

Trải qua bao biến thiên của lịch sử, thú chơi tranh Tết dường như bị quên lãng. Chỉ những người thật sự yêu dòng tranh dân tộc này còn giữ cái thú của tranh. Ngày nay khi đời sống đã khấm khá hơn, dân trí được nâng cao hơn thì cái thú chơi tranh ngày Tết lại bắt đầu trở lại.

Một mùa xuân mới lại về, nhà nhà, người người đang chuẩn bị sửa sang nhà cửa đón Tết. Những tờ lịch mới đã được treo lên, nhiều người lo đi xin chữ, chọn tranh để treo. Có lẽ nhiều năm sau nữa cái thú chơi tranh ngày Tết tao nhã này vẫn còn tồn tại cùng với người Việt, dân tộc Việt.

Q.Nhi