Top 10 Bài văn thuyết minh về cố đô Huế lớp 8 hay nhất – Toplist.vn

Cố đô Huế là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam hàng năm thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Huế là vùng đất kinh kỳ xưa được nhà Nguyễn xây dựng làm trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước từ đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20.

Nơi đây từng là kinh đô của triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, nơi chứng kiến biết bao thăng trầm trong một giai đoạn lịch sử chuyển giao giữa thời kỳ Phong kiến, thuộc địa và thời kỳ xây dựng đất nước trong thời đại mới. Ngày nay, Huế hầu như còn lưu giữ khá nguyên vẹn các công trình kiến trúc đặc trưng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trải qua 143 năm từ năm 1802 đến năm 1945. Một trong những công trình kiến trúc đặc trưng tiêu biểu và hoành tráng nhất trong quần thể di tích cố đô Huế đó là Kinh Thành Huế. Hệ thống kinh thành ngày này gồm rất nhiều công trình kiến trúc quan trọng, nơi từng là trung tâm chính trị của cả nước và là nơi trị vì của 13 vị vua triều Nguyễn.

Địa điểm lý tưởng nhất để hướng dẫn viên giới thiệu về Kinh Thành Huế chính là ở lầu Ngũ Phụng, nơi du khách có thể nhìn thấy được dòng sông Hương, núi Ngự Bình phía xa và Cồn Hến, cồn Dã Viên. Đây chính là một trong những yếu tố phong thủy cho Kinh Thành Huế. Kinh thành Huế được xây dựng dưới thời vua Gia Long, là vị vua khai quốc của triều đại nhà Nguyễn.

Công cuộc khảo sát để xây dựng Kinh Thành Huế bắt đầu từ năm 1803, chính thức khởi công vào năm 1805 hoàn chỉnh vào khoảng những năm 1832 dưới thời vua Minh Mạng. Có thể nói rằng, kinh thành Huế là một trong những thành tựu vĩ đại của vua Gia Long và triều Nguyễn.

Kinh thành Huế được xây dựng trên diện tích khoảng 520 ha có chu vi 10km cao 6,6m dài 21m. Thành có kiến trúc hình Vauban được xây khúc khỉu với những pháo đài phòng thủ được bố trí gần như điều nhau trên mặt thành. Thành ban đầu chỉ đắp bằng đất, mãi đến cuối thời vua Gia Long thành mới được cho ốp gạch như chúng ta thấy ngày hôm nay. Bên ngoài vòng thành có một hệ thống hộ thành hào chạy dọc theo chân thành có tác dụng như là chướng ngại vật có chức năng phòng thủ vừa có chức năng giao thông thủy.

Kinh thành Huế xoay mặt về hướng Nam theo phong thủy trong Kịch dịch “Thánh nhân nam diện, vi thính thiên hạ” Có nghĩa là “Vua phải quay mặt về hướng nam để trị vì thiên hạ”. Kinh thành Huế lấy núi ngự bình cao 104m về phía nam làm yếu tố Tiền Án, Sông hương chảy qua trước mặt kinh thành làm yếu tố Minh Đường. Hai bên tả hữu sông có cồn Hến và cồn Dã Viên làm yếu tố tả Thanh Long và Hữu Bạch Hổ. Tổng cộng kinh thành Huế có tất cả 13 của ra vào cả đường bộ và đường thủy. Thành có 10 của chính gồm:

Cửa Chính Bắc (Còn gọi là cửa Hậu, nằm phía sau kinh thành)

Cửa Tây – Bắc (Cửa An Hòa)

Cửa Chính Tây

Cửa Tây – Nam (Cửa Hữu, bên phải Kinh Thành)

Cửa Chính Nam (Cửa Nhà Đồ)

Cửa Quảng Đức

Cửa Thể Nhơn (Cửa Ngăn)

Cửa Đông Nam (Cửa Thượng Tứ)

Cửa Chính Đông (Cửa Đông Ba)

Cửa Đông Bắc (Cửa Kẻ Trài)

Ngoài ra kinh thành còn 1 cửa thông với Trấn Bình Đài hay còn gọi là đồn Mang Cá một góc thành nhỏ ở phía Đông Bắc. Đặc biệt kinh thành Huế còn có 2 cửa Thủy được đặt tên là:

– Đông thành Thủy Quan hay còn gọi là Cống Lương Y thông giữa sông Ngự Hà và sông đào Đông Ba.

– Tây Thành Thủy quan hay còn gọi là cống Thủy Quan thông giữa sông Ngự Hà và sông đào kẻ Vạn ở khu vực Kim Long.

Phía trước kinh thành Huế về hướng Nam là hướng quan trọng nhất của Kinh Thành có Kỳ đài hay còn gọi là Cột Cờ cố đô Huế. Kỳ Đài được xây dựng vào năm 1807 dưới thời vua Gia Long. Đến thời vua Minh Mạng, Kỳ Đài được tu sửa hoàn chỉnh vào các năm 1829, 1831 và 1840.

Kỳ Đài gồm 2 phần chính là Đài và Cột cờ. Đài gồm 3 tầng hình chóp cụt hình chữ nhật chồng lên nhau tượng trưng cho Thiên địa và Nhân. Tầng thứ nhất cao hơn 5,5 m, tầng giữa cao khoảng 6m, tầng trên cùng cao hơn 6 m. Tổng cộng của ba tầng đài cao khoảng 17,5 m. Từ mặt đất lên tầng dưới bằng một lối đi nhỏ ở phía trái Kỳ Ðài, tầng dưới thông với tầng giữa bằng một cửa vòm rộng 4 m, tầng giữa thông với tầng trên cùng cũng bằng một cửa vòm rộng 2 m. Ðỉnh mỗi tầng có xây một hệ thống lan can cao 1 m được trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng. Nền ba tầng lát gạch vuông và gạch vồ, có hệ thống thoát nước mưa xuống dưới. Trước đây còn có hai chòi canh và tám khẩu đại bác.

Cột cờ nguyên xưa làm bằng gỗ, gồm hai tầng, cao gần 30 m. Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), cột cờ được thay bằng một cây cột gỗ dài hơn 32 m. Đến năm Thành Thái thứ 16 (1904), cột cờ này bị một cơn bão lớn quật gãy, nên sau phải đổi làm bằng ống gang. Năm 1947, khi quân Pháp tái chiếm Huế, cột cờ lại bị pháo bắn gãy một lần nữa. Năm 1948, cột cờ bằng bê tông cốt sắt với tổng chiều cao 37m hiện nay mới được xây dựng. Ngày nay Kỳ Đài Huế được treo Quốc kỳ của nước Việt Nam có diện tích 9 x 12m.

Cửu vị Thần Công: Cửu vị Thần Công là tên gọi của 9 khẩu Đại Bác được đặt hai bên cửa Quảng Đức và Thể Nhơn. Hiện nay, du khách khi vào tham quan Hoàng Thành Huế sẽ bắt gặp khi đi qua cửa Quảng Đức và Thể Nhơn. Cửu Vị thần Công được các nghệ nhân đúc đồng Huế đúc theo lệnh của vua Gia Long sau khi đánh bại triều Tây Sơn. Năm 1803 sau khi chiếm lại kinh đô Phú Xuân, vua Gia Long lên ngôi đã truyền tập hợp tất cả các binh khí bằng đồng của triều Tây Sơn đúc thành 9 khẩu đại bác và đặt tên là Cửu Vị Thần Công nhằm kỷ niệm chiến thắng. Mỗi khẩu đại bác dài 5,1m và nặng khoảng 17,000 kg. Ngày nay chúng ta vẫn còn thấy rõ kích cỡ và trọng lượng được khắc trên mỗi khẩu đại bác. Đồng thời còn ghi rõ cách thức sử dụng súng cũng như thuốc súng ở trên mỗi khẩu Đại Bác. Mỗi khẩu thần công được đặt theo Ngũ Hành gồm 5 khẩu hiện nay để ở cửa Quảng Đức là : Kim, Mộc, thủy, Hỏa, Thổ và 4 khẩu được đặt theo tứ thời là: Xuân, Hạ, Thu, Đông ngày nay được đặt ở cửa Thể Nhơn.

Hoàng Thành Huế: Hoàng Thành Huế là vòng thành thứ 2 bên trong Kinh Thành Huế có chiều dài mỗi mặt thành khoảng 600m và gần như là vuông. Chiều cao khoảng 4, và dày 1m được xây bằng gạch vồ. Hoàng Thành chính là trái tim và là nơi quan trọng nhất của Kinh thành Huế, nơi đặt các cung điện, ngai vàng, trung tâm chính trị và nơi ở và làm việc của Hoàng gia triều Nguyễn. Hoàng Thành và Tử Cấm Thành được gọi chung là Đại Nội. Hoàng Thành được xây dựng vào năm 1804 dưới thời vua Gia Long nhưng mãi đến năm 1833 mới hoàn chỉnh hệ thống cung điện với khoảng 147 công trình lớn nhỏ khác nhau.

Hoàng Thành được trổ 4 cửa để ra vào gồm: Cửa Ngọ Môn nằm ở phía nam được xem là cửa quan trọng nhất nơi đặt lễ đài là lầu Ngũ Phụng được xem như là bộ mặt của Quốc gia, nơi đón sứ thần các nước. Cửa phía Bắc được đặt tên là cửa Hòa Bình, tả hữu hai bên là cửa Hiển Nhơn và Chương Đức. Các cầu và hồ xung quanh hoàng thành điều có tên gọi là Kim Thủy. Hoàng Thành và các Cung điện bên trong điều được bố trí trên một trục đối xứng gọi là trục Thần Đạo. Trong đó chính giữa trục Thần Đạo chỉ bố trí các công trình dành cho vua như cửa Ngọ Môn, cầu Trung Đạo, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, Cửa Hòa Bình. Hai bên trục thần đạo tính từ trong ra ngoài được bố trí tuân theo nguyên tắc: Tả Văn Hữu Võ, Nam tả nữ Hữu hay Tả Chiêu Hữu Mục.

Cửa Ngọ môn là cửa chính của Hoàng Thành Huế là cửa quan trọng nhất trong 4 cửa của Hoàng thành nơi dành để cho vua đi trong các dịp lễ quan trọng và là nơi diễn ra các buổi lễ quan trọng như lễ: đón tiếp sứ thần các nước, lễ xướng tên các Tiến Sĩ, lễ Ban Sóc và lễ Duyệt Binh. Vị trí của cửa Ngọ Môn trước đây có tên là Nam Khuyết Đài được xây dựng vào thời vua Gia Long, phía trên đài có điện Càn Nguyên, hai bên có hai cửa tả hữu Đoan Môn. Đến năm Minh Mạng thứ 14 tức năm 1833 khi vua Minh Mạng cho quy hoạch lại toàn bộ kinh thành Huế đã cho phá bỏ Nam Khuyết Đài và xây dựng của Ngọ Môn và Lầu Ngũ Phụng như ngày hôm nay.

Cửa Ngọ Môn gồm có 2 phần chính là phần Đài Cổng và Phần lầu Ngũ Phụng. Phần cửa Ngọ Môn hay còn gọi là phần nền đài được xây dựng bằng gạch vồ và đá Thánh, móng được gia cố chịu lực bằng đồng thau. Nền đài có hình chữ U vuông góc có chiều dài đáy 57,77m chiều dài cánh 27,06m chiều cao 5m với diện tích tính phần chữ U là 1560m2. Ở phần giữ nền đài nhìn từ ngoài vào có 3 cổng chính: Cổng chính giữa đặt tên là Ngọ Môn và chỉ được dành cho Vua, hai cửa hai bên được đặt tên là Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn dành cho quan văn và quan võ theo nguyên tắc Tả Văn Hữu Võ.

Đặc biệt hai bên cánh chữ U có 2 cửa vòng nhỏ mà chỉ được nhìn thấy từ phía trong ra ngoài đó là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn. Hai cửa quanh này chỉ dành cho voi ngựa, quân lính và đoàn tùy tùng khi vua xuất hành qua cửa Ngọ Môn.

Phần lầu Ngũ Phụng: Công trình kiến trúc đẹp nhất trong quần thể Hoàng Thành Huế được xây dựng trên nền đài của cửa Ngọ Môn. Lầu Ngũ Phụng có mặt bằng hình chữ U dựa theo nền móng của cửa Ngọ Môn gồm 2 tầng lầu và hai tầng mái. Lầu được dựng trên nền cao 1,14m xây dựng trên nền đài của cửa Ngọ Môn. Khung của lầu được dựng trên 100 cây cột gỗ Lim tượng trưng cho Bách tính trăm họ trong thiên hạ, trong đó có 48 cây cột xuyên suốt 2 tầng lầu. Hệ thống mái dưới chạy quanh lầu xuyên suốt để che nắng che mưa cho tất cả các phần lang cang phía dưới. Hệ thống mái tầng trên phức tạp hơn được chia làm 9 bộ mái trong đó bộ mái giữa cao hơn 8 bộ mái 2 bên được dành cho vua ngự. Bộ mái giữa được lợp bằng ngói Hoàng Lưu Ly màu vàng tượng trưng cho nhà vua. 8 bộ mái còn lại chia điều cho hai bên được lợp mái Thanh Lưu Ly màu xanh ngọc.

Chức năng của cửa Ngọ Môn và Lầu ngũ phụng: Cửa Ngọc Môn và Lầu ngũ phụng là công trình kiến trúc quan trọng nó được xem như là một lễ đài và bộ mặt của quốc gia. Nơi đây một năm chỉ có vài ngày diễn ra các lễ lớn quan trọng của đất nước, còn lại quanh năm cổng chỉnh được đóng kín và chỉ mở ra khi có dịp vua vi hành có đoàn tùy tùng hoặc khi vua xuất cung tế đàn Nam Giao.

Lễ truyền lô: Ngày nay khi tham quan lầu Ngũ Phụng, du khách có cơ hội chiêm ngưỡng bức tranh sơn dầu mô tả lại lễ truyền Lô hay còn gọi là lễ xướng tên khác sĩ tử đỗ Tiến Sĩ trong cuộc thi Đình tại Kinh Thành. Vào buổi lễ truyền lô, đoàn xa giá của vua xuất phát từ điện Thái Hòa sau đó lên lầu Ngũ Phụng. Vua ngự trên ngai vàng được đặt chính giữa lầu Ngũ Phụng. Phí dưới dân Ngọ Môn. Các sĩ tử đỗ Tiến sĩ trong khoa thi Đình đứng lần lượt hai bên theo nguyên tắc tả văn hữu võ chờ quan bộ Lễ tuyên đọc sắc phong vua ban. Sau đó lần lượt các sĩ tử sẽ nhận ấn tứ Vinh quy và được cưỡi ngựa về làng Vinh Quy Bái Tổ. Theo luật lệ triều Nguyễn. Làng nào có sĩ tử đỗ khoa thi Đình sẽ được miễn thuế 3 năm. Cho nên nhân gian có câu truyền miệng “Một người làm quan, cả họ được nhờ”.

Trải qua 143 năm trì vị của nhà Nguyễn, chứng kiến biết bao thăng trầm trong tiến trình lịch sử. Ngọ môn bản thân nó cũng chứng kiến rất nhiều sự kiện trọng đại của dân tộc Việt Nam mà điển hình là lễ thoái vị của vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của chế độ Phong Kiến Việt Nam. Năm 1945, cách mạng tháng 8 thành công vang dội trong cả nước, vua Bảo Đại lúc đó dưới sự chứng kiến của đại diện chính phủ lâm thời cách mạng đã trao ấn kiếm của nhà vua là biểu tượng quyền lực của chế độ phong kiến cho ông Trần Huy Liệu và Nguyễn Lương Bằng. Vua Bảo Đại đã đọc chiếu thoái vị và được ông Cù Huy Cận gắn huy hiệu công nhân Việt Nam lên áo. Tại đây, vua Bảo Đại đã có một câu nói nổi tiếng “Trẫm thà làm dân một nước tự do độc lập còn hơn làm vua của một nước nô lệ”.

Điện Thái Hòa: Điện Thái Hòa là công trình kiến trúc quan trọng nhất trong quần thể Hoàng Thành Huế. Là nơi đặt ngai vàng của các vị vua nhà Nguyễn, là trung tâm chính trị của cả nước trong 143 năm. Điện Thái hòa được đặt ở Trung Tâm khu vực Hoàng Thành, theo phong thủy là nơi trung tâm của vũ trụ. Điện quay mặt về hướng chánh nam được nối với cửa Ngọ Môn bằng một cây cầu đá bắc qua hồ Thái Dịch được gọi là cầu Trung Đạo. Xưa kia cầu Trung Đạo chỉ dành cho vua đi. Các quan văn võ phải đi hai lối hai bên tả hữu để vào sân chầu hay còn gọi là sân Đại Triều Nghi. Phía đầu và cuối cầu Trung Đạo được dựng hai chiếc cổng có hình lưỡng long chầu Nhật. Phía trên có khắc 4 chữ “ Chính đại quang minh” và “Chính trực đẳng bình” có ngụ ý rằng thiên tử khi đi qua đây để trị vì thiên hạ phải có cái tâm chính trực bình đẳng và quang minh chính đại. Phía trước điện Thái Hòa là sân Đại Triều Nghi, nơi thiết hành lễ Đại Triều vào ngày mồng 1 và 15 hàng tháng.

Về lịch sử xây dựng: Điện Thái Hòa được xây dựng vào tháng 2 năm 1805 dưới thời vua Gia Long và hoàn thành vào tháng 10 cùng năm. Năm 1833 khi vua Minh Mạng cho quy hoạch lại toàn bộ Hoàn Thành, điện Thái Hòa được dời về mé phía Nam của Hoàng Thành và cho làm lại quy mô lớn và lộng lẫy hơn. Năm 1923 dưới thời vua Khải Định để chuẩn bị cho lễ Tứ Tuần của Nhà vua (Mừng vua tròn 40 tuổi) diễn ra vào năm 1924, điện Thái Hòa lại được trùng tu thêm lần nữa. Về chức năng của điện Thái Hòa: Điện Thái Hòa là biểu trưng quyền lực của Hoàng triều Nguyễn. Điện, cùng với sân chầu, là địa điểm được dùng cho các buổi triều nghi quan trọng của triều đình như: lễ Đăng Quang, sinh nhật vua, những buổi đón tiếp sứ thần chính thức và các buổi đại triều được tổ chức 2 lần vào ngày mồng 1 và 15 âm lịch hàng tháng. Vào những dịp này, nhà vua ngồi uy nghiêm trên ngai vàng. Chỉ các quan Tứ trụ và những hoàng thân quốc thích của nhà vua mới được phép vào điện diện kiến. Các quan khác có mặt đông đủ và đứng xếp hàng ở sân Đại triều theo cấp bậc và thứ hạng từ nhất phẩm đến cửu phẩm, quan văn đứng bên trái, quan võ đứng bên phải. Tất cả các vị trí đều được đánh dấu trên hai dãy đá đặt trước sân chầu.

Điện Thái Hòa là nơi thể hiện uy quyền của quốc gia, điện được xây trên nền cao 1 mét, diện tích 1360 m², nguy nga bề thế trông ra một sân rộng. Cung điện được xây theo lối trùng thiềm điệp ốc và được chống đỡ bằng 80 cột gỗ lim được sơn thếp và trang trí hình rồng vờn mây – một biểu tượng về sự gặp gỡ giữa hoàng đế và quần thần đúng như chức năng vốn có của ngôi điện. Nhà trước và nhà sau của điện được nối với nhau bằng một hệ thống trần vòm mai cua dưới máng nước nối của hai mái nhà (thuật ngữ kiến trúc gọi là máng thừa lưu). Chính trần mai cua này nối với nửa trong tạo ra một không gian nội thất liên tục, thống nhất, rộng rãi, không còn cảm giác ghép nối hai tòa nhà. Việc ứng dụng máng thừa lưu là một sáng tạo của người xây dựng điện, nó chẳng những che kín được sự lõm xuống của nơi nối hai mái mà còn tạo nên nhịp điệu kiến trúc. Đây cũng là một dụng ý của kiến trúc sư.

Do thời tiết và kiến trúc cổ truyền Việt Nam mà điện không thể xây cao như của Trung Quốc, vì vậy nửa ngoài mái cao hơn, nửa trong mài thấp hơn. Mục đích là tạo cảm giác “cao” cho gian ngoài- nơi bá quan hành lễ, bên trong thấp vừa làm nổi bật gian ngoài vừa là nơi vua ngồi nên kín đáo, uy nghiêm. Hệ thống vì kèo nóc nhà sau tương đối đơn giản, chỉ làm theo kiểu “vì kèo cánh ác”, nhưng hệ thống vì kèo nóc nhà trước thì thuộc loại vì kèo “chồng rường – giả thủ” được cấu trúc tinh xảo. Toàn bộ hệ thống vì kèo, rường cột, ở đây đều liên kết với nhau một cách chặt chẽ bằng hệ thống mộng chắc chắn. Mái điện lợp ngói hoàng lưu ly, nhưng không phải là một dải liên kết mà được chia làm ba tầng chồng mí lên nhau theo thứ tự từ cao xuống thấp, gọi là mái “chồng diêm”, mục đích là để tránh đi sự nặng nề của một tòa nhà quá lớn đồng thời để tôn cao ngôi điện bằng cách tạo ra ảo giác chiều cao cho tòa nhà. Giữa hai tầng mái trên là dải cổ diêm chạy quanh bốn mặt của tòa nhà.

Dải cổ diêm được phân khoảng ra thành từng ô hộc để trang trí hình vẽ và thơ văn (197 bài thơ) trên những tấm pháp lam theo lối nhất thi nhất họa. Trang trí cũng như kiến trúc của điện Thái Hòa nói chung, có một khái niệm đặc biệt đáng chú ý là con số 5, và nhất là con số 9. Hai con số này chẳng những xuất hiện ở trang trí nội ngoại thất của tòa nhà mà còn ở trên các bậc thềm của điện. Từ phía Đại Cung Môn của Tử Cấm Thành đi ra điện Thái Hòa, vua phải bước lên một hệ thống bậc thềm ở tầng nền dưới là 9 cấp và ở tầng nền trên là 5 cấp. Trước mặt điện số bậc cấp bước lên Đệ nhị Bái đình và Đệ nhất Bái đình cộng lại là 9. Tiếp đó, hệ thống bậc thềm ở nền điện cũng có 5 cấp. Đứng ở sân Đại triều nhìn vào hay từ phía Tử Cấm Thành nhìn ra người ta đều thấy trên mỗi mái điện đều được đắp nổi 9 con rồng ở trong các tư thế khác nhau: lưỡng long chầu hổ phù đội bầu rượu, lưỡng long triều nhật, hồi long (rồng quay đầu lại), rồng ngang v.v…Ở nội điện cũng thế, từ ngai vàng, bửu tán, các mặt diềm gỗ chung quanh cho đến mỗi mặt của ba tầng bệ mỗi nơi đều trang trí một bộ 9 con rồng.