Toán học phát triển rực rỡ với người Hy Lạp
Toán học ở Hy Lạp được chia thành nhiều trường phái riêng
Trường Ionian. Được thành lập bởi Thales. Thales được xem là một nhà triết gia đầu tiên trong nền triết học Hy Lạp cổ đại, là “cha đẻ của khoa học”. Tên của ông được dùng để đặt cho một định lý toán học do ông phát hiện ra. Ông cũng là người đưa ra các bằng chứng suy luận đầu tiên và phát triển 5 định lý cơ bản trong hình học phẳng.
Thales – Người đầu tiên áp dụng toán học đo chiều cao kim tự tháp Ai Cập
Trường Pythagore. Được thành lập bởi Pythagoras. Ông được biết đến là một nhà khoa học và toán học vĩ đại. người đã nghiên cứu tỷ lệ hình học, mặt phẳng và hình học và lý thuyết số. Pythagoras đã thành công trong việc chứng minh tổng 3 góc của một tam giác bằng 180° và nổi tiếng nhất nhờ định lý toán học mang tên ông. Ông cũng được biết đến là “cha đẻ của số học”. Pythagoras đã có nhiều đóng góp quan trọng cho triết học và tín ngưỡng vào cuối thế kỷ 7 TCN. Pythagoras và các học trò của ông tin rằng mọi sự vật đều liên hệ đến toán học. Mọi sự việc đều có thể tiên đoán trước qua các chu kỳ.
Pythagoras nhà toán học nối tiếng người Hy Lạp
Trường Sophist. Được công nhận là cung cấp giáo dục đại học ở các thành phố Hy Lạp tiên tiến. Các nhà khoa học đã cung cấp hướng dẫn về tranh luận công khai bằng cách sử dụng lý luận trừu tượng.
Trường Platonic. Trường được thành lập bởi Platon, người đã khuyến khích nghiên cứu toán học trong một bối cảnh giống như một trường đại học hiện đại. Trường Eudoxus, được thành lập bởi Eudoxus, người đã phát triển lý thuyết về tỷ lệ và độ lớn và tạo ra nhiều định lý trong hình học phẳng Trường Aristotle, còn được gọi là Lyceum, được thành lập bởi Aristotle và theo học trường Platonic.
Platon – nhà triết học kiêm nhà toán học nổi tiếng
Ngoài các nhà toán học Hy Lạp được liệt kê ở trên. Một số người Hy Lạp đã tạo nên một dấu ấn không thể xóa nhòa về lịch sử toán học. Archimedes, Apollonius, Diophantus, Pappus và Euclid đều đến từ thời đại này.
Trong thời gian này, các nhà toán học bắt đầu làm việc với lượng giác. Tính toán trong tự nhiên, lượng giác đòi hỏi phải đo góc và tính toán các hàm lượng giác. Bao gồm sin, cosin, tiếp tuyến và nghịch đảo của chúng. Lượng giác dựa trên hình học tổng hợp được phát triển bởi các nhà toán học Hy Lạp như Euclid. Ví dụ, định lý Ptolemy đưa ra các quy tắc tổng và sự khác biệt của các góc. Tương ứng với tổng và các công thức khác biệt cho sin và cosin. Trong các nền văn hóa trước đây, lượng giác đã được áp dụng trong thiên văn học và tính toán các góc trong thiên hà.
Nguồn: MagellanTV