Tình hình sản xuất, nuồi trồng hoa lan trên thế giới và ở Việt Nam – SIÊU THỊ PHÂN THUỐC
1/ Chức năng của hoa lan trong cuộc sống kinh tế
Trong thế giới những loài hoa, hoa lan là một trong các loài hoa đẹp nhất. Hoa lan được coi là một loài hoa tinh khiết, hoa vương giả cao sang, vua của những loài hoa. Hoa lan không chỉ đẹp về màu sắc mà còn đẹp cả về hình dạng, cái đẹp của hoa lan thể hiện từ các đường nét của cánh hoa thanh nhã đến các dạng hình thân lá, cánh duyên dáng, ít có loài hoa nào sánh nổi.
Chức năng của hoa lan trong cuộc sống kinh tế (hình minh họa)
Hoa lan được mệnh danh là món trang sức đẹp nhất mà thiên nhiên ban tặng cho loài người. Con người chưa hề ngừng ngắm nhìn những tác phẩm tuyệt mỹ ấy. Hoa lan luôn được đông đảo người ưa thích bởi lẽ hoa lan có cấu trúc cực kỳ kiêu kỳ và phức tạp với n hững chạm trổ hết sức tinh vi, nhất là bộ phận môi hoa đã làm nhiều nhà điêu khắc phải thán phục. Hoa lan bao gồm cực kỳ nhiều màu sắc, được pha trộn 1 cách cân đối, hài hòa, khi thì hiện lên các nét tương phản sắc nét, khi thì chìm lắng 1 cách lặng lẽ.
Cây lan lại mang các nét đặc trưng thú vị của một trong các loại cây trồng không đất. Khác với những loài ký sinh thông thường có công dụng hủy hoại ký chủ, trái lại nhiều loài lan sống phụ sinh, chỉ xem giá thể như là vật để giá đỡ lan trong không gian và dưỡng ẩm cho bộ rễ. Do đó cha ông ta đã sử dụng cây lan biểu thị cho người quân tử “Mai, Lan, Cúc, Trúc” một đạo đức cao quí của con người Việt Nam.
Ngoài nét đẹp kiêu kỳ, quyến rũ, lan còn có những đặc tính mà đa số loài hoa khác không có được, với mùi thơm nổi bật là, đa dạng mà hầu hết không có loại hương liệu nhân tạo nào sánh được cùng với điểm mạnh lâu tàn đã tạo cho lan trở nên một trong các loại hoa vương giả. Chính vì thế giá lan biến động cực kỳ cao trên thị trường, trung bình là 10-15 đôla/cây, nhưng cũng có những loài quí đạt tới 400 đôla/cây, cá biệt có loài giá bán tới vài nghìn đôla. Ở châu Á, Thái Lan là nước có sản lượng lan công nghiệp lớn nhất với trị giá kim ngạch xuất khẩu mỗi năm tới hàng chục triệu đôla.
2/ Tình hình sản xuất, nuôi trồng hoa lan trên toàn cầu
Hoa lan (Orchidaceae) là một trong đỉnh cao của sự tiến hóa của những loài cây có hoa. Hoa lan được con người biết đến cực kỳ sớm. Ở châu Á, danh từ lan là tên có từ rất lâu rồi trong Tứ thư, ngũ kinh và cả trong Kinh dịch của Bách Gia Chư Tử (Trung Quốc 551 – 479 trước công nguyên). Hoa lan được biểu trưng cho người quân tử. Khổng Tử đã hết lời ca tụng hoa lan và có thể là người giai đoạn đầu coi hoa lan là vua của những loài hoa.
Theo Bretchneider: từ đời vua Thần Nông – Trung Quốc (2800 trước Công nguyên) trong một tài liệu về cây thuốc, còn ghi lại hai loài lan được sử dụng để làm thuốc chữa bệnh. Sau này dựa trên sự miêu tả người ta có thể xác định đó là một loài Cymbidium ensifolium và Dendrobium monniliforme.
Đời nhà Tần – Trung Quốc (255 – 206 trước Công nguyên) có một quan thượng thư nghiên cứu và viết một tác phẩm về hoa cỏ trong đó cũng có miêu tả hai loài hoa lan để làm thuốc kể trên.
Đến đời nhà Tống – Trung Quốc (960 – 1279) có một học giả là Mao Siang có viết một cuốn sách về dược thảo và biện pháp dưỡng sinh. Trong cuốn sách này có trình bày về công cụ dược học của đa số hoa lan như: Dendrobium nobile và Dendrobium crumenatum.
Từ đời nhà Minh (1278 – 1368) trở đi, hoa Lan được họa thành tranh, và tranh hoa lan là tranh nghệ thuật quý để bài trí nội thất thời bấy giờ.
Năm 1728 Matsuka (Nhật Bản) đã viết một quyển sách chỉ dẫn cách trồng hoa lan và bón phân, tưới nước cho cây lan.
Nói chung những nước ở châu Á, hoa lan được biết tới và đưa vào nuôi trồng cực kỳ sớm. Đến thế kỷ 20, người Anh mới đến Singapore mở đầu cho một thời kỳ mới là lập trại nuôi trồng hoa lan và kỹ nghệ nuôi trồng lan. Những giống lan được nuôi trồng tại đây chính là: Arachnis, Vanda, Oncidium… đồng thời lai tạo những loài lan mới.
Từ năm 1957, Thái Lan, Indonexia bắt đầu phát triển nuôi trồng lan quy mô ngày càng lớn phục vụ cho xuất khẩu. Những loài lan rừng, lan lai, lan cắt cành của Thái Lan được xuất khẩu qua nhiều nước trên toàn cầu.
Có thể nói Thái Lan là một nước tiêu biểu cho ngành nuôi trồng và xuất khẩu hoa lan ở những nước châu Á. Công nghiệp sản xuất, xuất khẩu hoa lan ở Thái Lan được khởi đầu từ Thong Lor Rakhpa Busobat ở Bangkok. Từ người giai đoạn đầu không biết gì về hoa lan và hầu hết không một ai chỉ dẫn, Thong Lor Rakhpa Busobat đã đến với hoa lan với tấm lòng say mê vô hạn. ông đã tự mày mò nghiên cứu, trải qua bao nhiêu gian lao vất vả trên bước đường nghiên cứu. Thành công nhiều nhưng sai lầm cũng không phải ít. Và như ông đã từng nói: “Chính cây lan dạy tôi mò mẫm từ sai lầm”, cuối cùng ông đã thành công rạng rỡ.
Sau các thành công của Thong Lor, rất nhiều người từ những nước Ấn Độ,Sri Lanka, Philippin đã lần lượt đến Thái Lan học hỏi kinh nghiệm sản xuất và kinh doanh lan. Ngày nay hằng tháng công ty hoa lan của Thong Lor đã gửi hàng trăm chuyến hoa lan xuất khẩu sang những nước châu Âu, sang Hoa Kỳ và sang Nam Mỹ. Những vườn hoa lan của Thong Lor thường có ít nhất là 10/000 cây trở lên. Đặc biệt Thong Lor đã lai hình thành công đa số loài hoa lan lai mới có hoa với rất nhiều màu sắc đẹp cuốn hút người thưởng thức.
Ngành hoa lan Thái Lan ngày càng phát triển mạnh hơn lên với những vườn lan Mountain Orchids và Sai Nam Phung Orchids ở Chiang Mai, đây chính là các vườn lan lớn với diện tích, số lượng cây và loài đáng kể của Thái Lan.
Ở châu Âu cũng như châu Á, người châu Âu đã biết đến hoa lan cực kỳ sớm, những tập di cảo dược tính, thảo mộc trong đó có kể đến cây lan đã có từ trước Công nguyên.
Lan (Orchidologia) bắt nguồn từ Hy Lạp cổ đại. Theo Phrastus (370 – 285 trước Công nguyên) là người giai đoạn đầu sử dụng danh từ Orchis trong tác phẩm “Nghiên cứu về thực vật” để chỉ có một loài hoa.
Đầu thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên, Dioscoride đã đặt tên gọi trên cho hai loại cây trong tác phẩm của bản thân về cây mộc thảo để làm thuốc. Orchis tiếng Hy Lạp có nghĩa là tinh hoàn, nó chỉ sự giống nhau của thân củ ngầm của lan có dạng tương đương với tinh hoàn của động vật.
Trải qua 1 lịch sử lâu dài, năm 1519, một người châu Âu là Coster đã phát hiện một loài cây mới và lạ ở Mexico có hương thơm, loại cây này được ông đem về Tây Ban Nha và phát triển hình thành kỷ nghệ sản xuất mùi vị vani, loại cây đó chính là an Vanilla. Miêu tả về lan sớm nhất ở châu Mỹ là “Y văn cổ của Astec” (Badianus madues cript, 1552), ngoài giống lan Vanilla còn nhắc đến một loài lan khác.
Lobelius (1529 – 1616) trong nghiên cứu về thực vật của bản thân đã nêu các đánh giá về hoa cỏ và xếp thành những họ giản đơn, trong đó có họ lan.
Tình hình sản xuất, nuôi trồng hoa lan trên toàn cầu (hình minh họa)
Đến năm 1753, Linnaeus đã sử dụng danh từ orchis trong cuốn sách thảo mộc Specles Platarum để chỉ những loài lan. Năm 1836, John Lindely sử dụng danh từ orchid định danh chung cho những loài lan. Còn chữ orchis sử dụng chỉ có một loài địa lan ở châu Âu.
Những thế kỷ 16 – 17, các người châu Âu, nhất là người Anh đã đi toàn thế giới nghiên cứu, sưu tập hoa cỏ. Trong giai đoạn này đa số loài lan nhiệt đới đã được đưa về nước Anh. Năm 1794 ở Anh người ta đã biết được 15 loài lan nhiệt đới. Ở châu Âu trong cả một thời gian dài người ta tin rằng hoa lan mọc trên gỗ, nên chúng là vật ký sinh và xem sự nghiệp gây trồng là vô vọng. Các dò lan quý hiếm do những nhà du lịch mang từ những khu vực rừng núi nhiệt đới xa xôi về được bảo quản 1 cách cực kỳ cẩn trọng trong các bộ thực vật sưu tập được coi là các tài sản vô giá. Sự yêu thích về hoa lan của người châu Âu ngày một được tăng lên, từ từ càng có rất rất nhiều người đi đến những nước châu Á, châu Mỹ tìm lan. Rất nhiều người đi sâu vào rừng nguyên sinh nhiệt đới, trải qua bao nhiêu nguy hiểm để tìm được một giò lan, không ít người đã phải trả giá cao bằng cả tính mạng của con người để tìm kiếm được một số loài lan mới trong những chốn rừng sâu. Ở thế kỷ 18 – 19, lan là loài thực vật quý được nhận xét cao, một số giò lan quý bằng mấy lần tiền lương của công nhân hằng tháng. Ở giai đoạn này, khoa học và kỹ thuật trong sinh học và nông học chưa cao, người ta chưa biết sự cấp thiết của nấm rễ đối với đời sống của cây lan, người ta chưa biết kỹ thuật gây tạo cây con lan từ hạt, quá trình lựa tìm những loài lan gặp cực kỳ nhiều khó khăn, nhất là vấn đề vận chuyển lại càng khó khăn gấp bội. Chính vì thế nên giá hoa lan trở thành cao vượt bậc. nhiều cuộc khảo sát, tìm tòi những loài lan được tổ chức trong khoảng thời gian này với một chi phí lớn và hoa lan trở nên mặt hàng kinh doanh mang lợi nhuận cao.
Đầu thế kỷ 20, cách gieo trồng hoa lan từ hạt bằng nhiều nấm cộng sinh có từ cây lan mẹ bắt đầu mở ra một thời kỳ mới đối với nghề nuôi trồng lan. Nhiều nhà khoa học, nhiều nhà làm vườn đã nghiên cứu những cách thức nuôi trồng hoa lan trong các điều kiện môi trường khác nhau, việc chăm sóc, cung ứng những dưỡng chất được triển khai trên các nền tảng khoa học mới. Việc khám phá ra vấn đề bổ sung gluxit và các chất hữu cơ khác cho hoa lan tạo cơ hội cho việc mở rộng quy mô môi trường ngày càng lớn. Với các biện pháp cách nhân giống bằng hạt đã mở ra khả năng phát triển ngành lan ở châu Âu cũng như ở thế giới. Nhất là đưa kỹ thuật lai tạo ứng dụng vào giống lan, sinh ra các cây lan lai có nét đẹp về màu sắc và hình dáng duyên dáng hơn hẳn bố mẹ. Từ đây lan lai giai đoạn đầu được sinh ra giữa những loài hoa là Calanthe dominii bắt đầu nở hoa vào năm 1856 được nhà làm vườn người Anh là Fohn Domini sinh ra bằng phương pháp lai C. masutra x C. furcata.
Hiện nay, những loài lan đã xếp thành một hệ thống phân loại chung gọi là Orchidaceae, lan rừng đã xác định được 750 chi và hơn 25/000 loài tự nhiên và có hơn 30.000 loài lan lai. Mọi cách nhân giống và nuôi trồng hoa lan đã biến thành một bộ phận đa phần nhất của ngành trồng hoa cảnh xuất khẩu của đa số nước. Việc khai thác nguồn lan nhiệt đới đối với người châu Âu không còn nguy hiểm nữa. Nhiều công ty ở những nước nhiệt đới đã thu thập một số loại lan rừng và nuôi trồng để xuất khẩu. Trong các thập niên cuối thế kỷ 20, ở châu Âu, lan trở nên mặt hàng thương mại, từ Anh sang Pháp… tiếp đến lan sang Mỹ. Ở Mỹ có hai bang sản xuất hoa lan phổ biến nhất ở California và Florida. Việc nuôi trồng để xuất khẩu hoa lan ngày nay ở nhiều nước đã đạt đến số lượng hàng trăm giò lan và cành lan hằng năm. Trước đây số lượng xuất khẩu đa số là từ lan được khai thác trong rừng đã gây lên nguy cơ khoảng 13 số loài lan có khả năng bị diệt trừ chủng. Nhu cầu nuôi trồng hoa lan trên quy mô công nghiệp ngày càng phát triển. Ở nhiều nước, những nhà nuôi trồng hoa lan nghiệp dư và chuyên nghiệp đã lập ra những hội hoa lan ngày càng nhiều. Hiện nay đã có hơn 400 hội hoa lan trên toàn cầu, có rất nhiều chuyên san về hoa lan đã được xuất bản. Nhiều cuộc hội thảo về hoa lan trên quy mô quốc tế được triệu tập.
Từ năm 1983, tập san chuyên đề về lan alf Lớn orchids – Nhận xét được Anh xuất bản theo thường kì 3 tháng một vài, và từ năm 1932 tập san Lớn American orchid – Society (AOS) được Mỹ xuất bản thường kì mỗi tháng một vài. Cho đến bây giờ cả hai tập san trên vẫn tiếp tục phát hành và có đồng loạt những tập san về hoa mới phát hành tiếp sau. Nhiều cuộc triển lãm về lan đã được tổ chức. Nhiều giải thưởng đề ra cho các thành tựu xuất sắc nhất trong cách chọn giống lan.
Trung Quốc là nước có tốc độ phát triển lan tương đối nhanh. Đầu thập kỷ 80, Trung Quốc bắt đầu nhập nội lan Hồ Điệp. Năm 2002, sản lượng lan Hồ Điệp của Trung Quốc là 3 triệu cây, đa phần ở Quảng Đông, Phúc Kiến, Bắc Kinh, Vân Nam, Sơn Đông.. bao gồm 50 – 60 xí nghiệp có quy mô lớn, trong đó Quảng Đông có hơn 10 công ty sản xuất khoảng 1,2 triệu cây (chiếm 40% sản lượng lan Hồ Điệp của Trung Quốc). Cùng với mức sống ngày càng cao của người dân thì nhu cầu về hoa cũng ngày càng tăng, diện tích trồng hoa ngày một tăng và nghề trồng lan Hồ Điệp đã biến thành con đường vươn lên giàu có chắc chắn cho nhiều công ty doanh nhân ở Trung Quốc.
Ngày nay, đối với người những nước châu Âu và châu Mỹ cũng như đa số những nước trên toàn cầu, hoa lan là một sản phẩm cao quý. Đặc biệt đến mùa Noel, lan được xuất khẩu 1 cách ồ ạt từ những ước châu Á như Thái Lan, Singapore sang những nước Âu Mỹ với giá đắt, những hãng sản xuất thuê bao những hãng hàng không vận chuyển hoa lan sang phục vụ người tiêu sử dụng.
Thị trường xuất khẩu hoa lan trên toàn cầu ngày càng mở rộng. Kim ngạch thương mại hoa lan cắt cành thế giới 2000 đạt 150 triệu USD trong đó Nhật Bản là nước nhập khẩu hoa lan cắt cành số 1 thế giới, thứ hai là Ý, kế đến là PHáp, Đức đứng thứ tư và thứ năm là Mỹ, những nước từ thứ 6 đến 17 lần lượt là: Anh, Hà Lan, Áo, Bỉ, Hy Lạp, Ba Lan, Tây Ban N hecta, Thụy Điển, Canada, Phần Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ…
Thị trường xuất khẩu hoa lan ngày nay rất rộng lớn và đầy triển vọng. Hiện nay người tiêu sử dụng có xu hướng mua hoa lan có giá cả hạ mà dường như không cần phải biết xuất xứ do đó thị trường hoa lan thế giới luôn có chỗ cho các quốc gia mới tham dự miễn là giá hạ, hoa lâu bền và màu sắc đúng sở thích của nhiều người tiêu sử dụng.
Xu hướng phát triển mới của ngành thương mại hoa lan thế giới là sự mở rộng diện tích của những trang trại trồng lan, nhất là ở Thái Lan đã có các trang trại chuyên trồng loài Dendrobium rộng đến 39 hecta.
Thứ hai là qui mô những dự án đầu tư cho ngành thương mại hoa lan đang nâng cao, tại Panama đang có dự án với vốn đầu tư lên tới 200.000USD.
Thứ ba là sự phát triển của việc lai tạo giống hoa lan, nhất là Dendrobium sinh ra những cành hoa dài, hoa lớn và đa dạng màu sắc.
Thứ tư là sự phát triển của một số loại hoa lan ôn đới như Cymbidium, Dendrobium và Oncidium cho các cành hoa có độ bền cao, có thể cắm trong bình đến 1 tháng.
Cuối cùng là sự thay đổi mạng lưới phân phối để có thể ship hàng đến tận tay khách hàng.
3/ Tình hình sản xuất, nuôi trồng hoa lan ở Việt Nam
Riêng về hoa lan, một số loại hoa lan rừng đẹp đến mức độ lộng lẫy đã đến với người dân Việt Nam từ cổ xưa. Hoa lan đến với người Việt Nam từ các bông hoa đẹp, từ các bài thuốc trị bệnh được lưu truyền trong dân gian từ đời này qua đời khác cho tới hiện nay. Hoa lan là loài hoa quý, đối với người Việt Nam, hoa lan biểu trưng cho sự trong sạch, thanh cao, số người hiểu biết về hoa lan tuy còn ít ỏi, và các người chơi lan trước đây đa số là các người giầu có, các nho sĩ, các cụ già nhàn rỗi…
Từ thời Trần Anh Tông, nhà vua thích sưu tầm một số loại hoa, những cây cảnh uốn thế và một số loại hòn non bộ. Nhất là đã sưu tập được 500 loài cây lan quý, lập nên “Ngũ bách viên” – niềm kiêu hãnh của một ông vua hào hoa phong nhã. Những sứ thần Trung Quốc và những nước mỗi khi đến Việt Nam, vua Anh Tông thường đích danh dẫn họ đi xem vườn. Ai ai cũng tấm tắc khen và tin rằng Đông phương có một không hai, không một ai có được vườn lan quý như vậy. vua Anh Tông thường sai bảo đi mọi nơi, lên rừng xuống biển, qua cả những nước Lào, Chiến Thành, Phù Nam, Xiêm La tìm những loài hoa quý, lạ đưa về.
Bên cạnh “Ngũ bách viên” của vua Anh Tông, có một vườn lan ở phường Thanh Hà – Thăng Long. Đó là vườn của một cự phú họ Lữ, người Trung Hoa, anh ruột của Tổng đốc Quảng Tây Lữ Cảnh Phú, tên là Lữ Hồng Chiêu. Vườn lan của Lữ Hồng Chiêu toàn các loài lan quý, hiếm và có mùi thơm ngào ngạt, Lữ Hồng Chiêu có các kỹ thuật, kinh nghiệm chăm sóc vườn lan cực kỳ nổi bật là, ông có một vài nữ nhân công chuyên chăm sóc lan. Bí kíp của việc chăm sóc cho lan làm kích thích cho cây lan tốt, chóng ra bông và hoa bền đẹp là sử dụng nước tắm của phái nữ để tưới cây hoa lan. Bí kíp về kỹ thuật này khởi thủy từ Đỗ Phủ đời Đường của Trung Quốc lưu truyền lại.
Trong “Vũ trung tùy bút” và “Tang thương ngẫu lục” của Phạm Đình Hổ, ông đã miêu tả nhiều cảnh ở Tây Hồ, Bắc Cung, Long Trì và việc nuôi trồng hoa, chơi cây cảnh của vua quan và nhân dân ta. Mục “Hoa thảo” trong “Vũ trung tùy bút” đã miêu tả đa số loài hoa như Thạch hoa, Thanh lan, Đông lan, Kiết lan, đồng thời có nói rõ cách trồng lan.
Nhiều tác phẩm văn thơ Việt Nam ngàn xưa đã nhắc nhiều loại hoa lan. Nhất là trong những sách nói về cây thuốc như của Hải Thượng Lãn Ông và những sách thuốc khác lưu truyền ở Việt Nam đều có nêu lên các cây lan để làm thuốc trị bệnh.
Thế kỷ 17, người châu Âu, đa số là các người truyền giáo đạo Gia tô đến Việt Nam. Năm 1780 giáo sỹ Ivannis Ioureiro trong chuyến đi Việt Nam đã miêu tả một vài loài lan Việt Nam thuộc những giống Phalaenopis, Dendrobium, Cymbidium.
Tại Việt Nam, người chơi hoa và thủy chung với hoa nổi tiếng phải nói đến Trần Tuấn Anh, người đất Hà Thành. Anh là người chơi lan, gắn bó với lan đã hơn 20 năm, từng ngược xuôi khắp mọi miền đất nước để săn lùng phong lan. Được biết, cũng vì tìm lan mà đã từng có lần Tuấn Anh đã lạc trong rừng sâu nhiều ngày. Qua tháng năm, vườn lan ở Thanh Xuân của Tuấn Anh hội tụ được hơn 300 loài luôn giành được sự “kính trọng” của giới chơi lan.
Năm 2002 là 1 năm đánh dấu một sự kiện không thể quên với Tuấn Anh. Anh đã tìm kiếm được một loài lan hoàn toàn lạ lẫm tại miền núi Tây Bắc – Việt Nam. Loài lan này có tên khoa học là Dendrobium tuananhii được thế giới được biết đến và tên anh đã được đặt cho loài hoa đặc biệt quí hiếm này.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới ẩm thích hợp với nhu cầu sinh thái của một số loại lan, hoa lan đã đến với con người Việt Nam từ rất lâu đời, nhưng bối cảnh lịch sử của nền kinh tế lúc đó còn chưa phát triển nên từ đời này qua đời khác cây lan ở Việt Nam chỉ dừng lại ở dạng trồng để thưởng thức. Việc nuôi trồng kinh doanh hoa lan như những nước ở châu Âu và châu Á phát triển chưa được quan tâm đúng mức.
Tình hình sản xuất, nuôi trồng hoa lan ở Việt Nam (hình minh họa)
Vấn đề kinh doanh xuất khẩu hoa lan đối với Việt Nam cho đến bây giờ vẫn đang ở thời kỳ đầu. Việt Nam có hai nam bộ, Bắc có khí hậu khác nhau rõ ràng. Nam bộ có mùa đông lạnh và có bão, nam bộ thời tiết ôn hòa ấm cúng. Vì vậy để sản xuất lan kinh doanh ở bắc bộ chỉ phù hợp với việc trồng một số loại hoa lan đa phần khai thác từ một số loại lan rừng và nuôi trồng với số lượng ít để trưng bày thưởng thức, còn vấn đề nuôi trồng theo quy mô công nghiệp không phù hợp, do có mùa bão, dẫn tới giá cả cao hiệu quả kinh tế kém.
Khí hậu ở nam bộ Việt Nam phù hợp với nuôi trồng lan. Từ các năm 1960 – 1970 do tác động của ngành hoa lan, cây cảnh thế giới (Thái Lan và những nước Tây Âu), các cây lan thuộc những giống như Phalaenopis, Dendrobium, Cattlleya, Cymbidium từ Thái Lan, Singapore, Pháp và Mỹ được nhập nội vào nam bộ Việt Nam đa phần đưa vào Thành phố hồ chí minh tức là tp hồ chí minh hiện nay và Đà Lạt là nền móng giai đoạn đầu cho ngành nuôi trồng lan. Trước đây những chủ vườn và những “nghệ nhân” nuôi trồng lan đa phần để thưởng thức nghệ thuật. Từ từ hòa theo xu hướng sản xuất kinh doanh hoa lan của thế giới, đa số là Thái Lan, những vườn lan được chuyển dần sang kinh doanh, bắt đầu mở rộng nhập nội cây lan với quy mô đáng kể. Sau năm 1975, vấn đề nuôi trồng lan gần như bị ngưng lại. Một vài vườn lan trở nên vô chủ, một vài vườn lan khong có người chăm sóc. Nhưng chỉ vài sang năm tình hình bắt đầu ổn định, ngành hoa lan bắt đầu chuyển sang 1 thời kỳ mới. Ở tp hồ chí minh, một vài vườn lan cũ được hồi phục, có những ngày hội thi hoa lan, cây cảnh của thành phố và những quận huyện ngày càng trở lên rầm rộ, từ năm 1981, Hội hoa xuân bắt đầu mở ở tp hồ chí minh.
Ngày nay, mỗi năm vào đợt tết Nguyên đán, Hà Nội và tp hồ chí minh đều mở hội hoa xuân trong đó có trưng bày nhiều loại hoa lan. Việc tổ chức chấm thi hoa lan, tranh giải trao huy chương cho những nghệ nhân nuôi trồng hoa lan có hoa lan đẹp diễn ra thường kỳ, có công dụng kích thích người nuôi trồng hoa lan, phong trào nuôi trồng hoa lan ngày càng phát triển và việc nuôi trồng hoa lan từ từ bước sang thời kỳ kinh doanh xuất khẩu. Những công ty như công ty rau quả xuất khẩu Trung nông – Vetgetexco và công ty Thủ công mỹ nghệ tổng hợp xuất khẩu tp hồ chí minh (Atex – Saigon) là các công ty tham dự xuất khẩu hoa lan giai đoạn đầu ở Việt Nam.
Việc xuất khẩu hoa lan của Việt Nam chính thức dược thực thi vào năm 1980 do công ty Vegetexco xuất lan cắt cành Đà Lạt (Cymbidium) và một số loại hoa khác như hoa Lay ơn (Gladiolus communis L.), hoa Lily. Những công ty của Việt Nam lần đầu cử đại diện đi dự hội nghị hoa quốc tế tổ chức tại Bratislava (Tiệp Khắc) và bắt đầu quan hệ với những công ty hoa Unicoop (Tiệp Khắc) Inovator (Hunggari) về hoa lan, cây cảnh.
Ở Hà Nội, Hải Phòng, phong trào nuôi trồng hoa lan đa số là hoa lan rừng chỉ mang tính chất thưởng thức nghệ thuật ở những cơ sở công cộng như những vườn hoa, những cơ sở nghỉ ngơi, giải khát.
Tại Đà Lạt có khoảng 500 gia đình nuôi trồng hoa lan, trong đó có hơn 150 gia đình tham dự vào Hội hoa lan của thành phố Đà Lạt. Ủy ban Khoa học kỹ thuật của Đà Lạt và phòng Sinh học của Viện Hạt nhân Đà Lạt cũng tham dự tích cực vào lập những cơ sở cấy mô phong lan và sưu tầm một số loại lan. Ngày nay Đà Lạt đã thu thập được 200 loài có thể nuôi trồng xuất khẩu.
Tại tp hồ chí minh từ năm 1983 – 1984 bắt đầu có đồng loạt những cơ quan đóng tại thành phố tổ chức thử nghiệm nuôi trồng trên quy mô lớn để xuất khẩu. Những vườn lan đáng kể là vườn lan của T78, vườn lan của Cục Quản lý giáo dục Bộ tham mưu, vườn lan của ngành hàng không dân dụng.
Về lan giống từ năm 1976, Trung tâm Sinh học tp hồ chí minh đã tổ chức nuôi cấy môphong lan và sinh ra đồng loạt cây giống phong lan bằng cách cấy mô.
Năm 1987, Ủy ban khoa học tp hồ chí minh tổ chức nghiên cứu đề tài và kinh tế kỹ thuật khoa học lan xuất khẩu. Và cũng năm 1987, thành phố quyết định hình thành Công ty phong lan xuất khẩu trực thuộc Sở Lâm nghiệp. Trong các năm 1987 – 1988, Hội khoa học Lâm nghiệp và trường Đại học Tổng hợp đã lần lượt mở lớp nuôi trồng hoa lan xuất khẩu, phong trào nuôi cấy lan thành phố trong khoảng thời gian này ngày càng sôi động. Tiếp đến hội hoa lan, cây cảnh thành phố ra đời, liên tục mở các buổi hội thảo về hoa lan, về cây cảnh. Ngày nay, tp hồ chí minh đã có mấy ngàn người nuôi trồng hoa lan, và có khoảng 20 vườn lớn. Trong đó có một vài vườn tư nhân đã biến thành xí nghiệp nuôi trồng xuất khẩu liên tục giao dịch với những công ty ở Thái Lan, Singapore, Nga…
Hoa lan ở Việt Nam chỉ chiếm xấp xỉ 10% tổng diện tích, đa số hoa được canh tác trên các mảnh vườn mở không có lưới và những phương tiện phòng ngừa mưa, bão, lụt cực kỳ thô sơ… nên chất lượng và thời vụ thu hoạch bị tác động cực kỳ nhiều. Hoa lan tuy cũng được canh tác trong vườn có lưới che mát nhưng cũng không có những phương tiện bảo vệ tránh gió, mưa, bão gây bệnh cho hoa.
Đà Lạt ngày nay đang trở nên điểm cuốn hút những nhà đầu tư kinh doanh hoa do sự thành công của những công ty nước ngoài đầu tư vào cách đây hơn 10 năm như Dalat Hasfarm chuyên trồng hoa ôn đới; công ty Lâm Thăng Đài Loan chuyên về Phalaenopsis (lan Hồ Điệp). vùng Sapa, Tam Đảo cực kỳ phù hợp cho việc trồng hoa ôn đới như hồng, Lily, Lay ơn,… Riêng hoa lan nhiệt đới, qua những năm từ 2003 – 2005 đã tăng từ 20ha lên 50ha (tăng 150%). Xu hướng tiêu sử dụng hoa lan đã được tăng lên đáng kể và dự báo sẽ tăng mạnh trong thập niên tới do Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WLớn sẽ là nhân tố tăng mạnh đầu tư nước ngoài nâng cao những dịch vụ du lịch, tổ chức hội nghị quốc tế…
3/1/ Tiềm năng ngành sản xuất hoa lan ở Việt Nam
3/1/1/ Sự tăng trưởng của nền kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam các năm qua phát triển vượt bậc đã gia tăng mức sống của người dân nhất là dân cư những thành phố lớn trong cả nước. Vậy nên nhu cầu tiêu sử dụng hoa cắt cành trong đó có hoa lan ngày càng tăng. Đa số hoa lan được canh tác và tiêu thụ trong nước nhất là vào những dịp lễ hội như Tết, Noel, ngày Phái nữ, Quốc khánh, ngày Nhà giáo, Sinh nhật, Hội nghị khách hàng…
Ngày nay Việt Nam đã là thành viên của WLớn tạo cơ hội cho ngành sản xuất hoa lan của Việt Nam có rất nhiều thời cơ tiếp cận thị trường quốc tế trong những lĩnh vực: cách trồng, lai tạo giống, nhân giống (cấy mô), bảo quản sau khi thu hoạch… để thúc đẩy công nghiệp hoa lan phát triển.
Tuy công nghiệp hoa lan ở Việt Nam chưa được qui hoạch trong chiến lược phát triển kế hoạch 5 năm của quốc gia nhưng xu hướng phát triển của hoa lan lại cực kỳ nhiều triển vọng vì hầu hết cung không đủ cầu: làn sóng đầu tư đổ vào Việt Nam trong đó có Mỹ, Nhật, Trung Quốc và những quốc gia khác, những khu vực đang tạo một cảnh quan du lịch sinh thái, những hội nghị quốc gia cũng như những forum quốc tế tổ chức tại Việt Nam với tần suất ngày càng tăng làm cho nhu cầu hoa lan tăng cường thêm và hầu hết Việt Nam mỗi năm phải chi ra hàng tỷ đồng để nhập khẩu hoa lan từ những nước láng giềng cũng chỉ để phục vụ cho thị trường trong nước.
3/1/2/ Thu nhập từ trồng hoa lan
Hiệu quả kinh tế nói chung của vườn lan cao hơn nhiều loại cây trồng nông nghiệp khác; nhất là tại các khu vực đất sản xuất nông nghiệp không đạt được hiệu quả như đất phai màu, chua phèn hay nhiễm mặn vì cây lan không cần đến đất. Đặc biệt Việt Nam có những tỉnh duyên hải và Bến Tre là nơi tập trung trồng dừa và vỏ dừa khô chính là giá thể tối ưu nhất để cây lan phát triển. Xơ dừa là nguyên vật liệu rẻ tiền hỗ trợ cho việc đầu tư vào sản xuất hạ đi cực kỳ nhiều so sánh với những quốc gia khác. Những nguyên vật liệu khác như lưới che mát, than, tre nứa cũng đã sản xuất được ở Việt Nam góp thêm phần gây giảm kinh phí đầu tư cho người sản xuất.
Ngày nay người trồng lan có thu nhập cao gấp rất nhiều lần so sánh với người trồng lúa, gấp 4 – 5 lần so sánh với người trồng rau cải, cỏ cho chăn nuôi… Theo số liệu thống kê của vụ kế hoạch thuộc Bộ NN & PTNT nếu tiến hành trồng lan cắt cành Dendrobium và Mokara 1ha có thể cho doanh thu 500 triệu – 1 tỉ đồng/ hecta /năm.
3/1/3/ Thu nhập cao từ kinh doanh hoa lan
Những cơ sở kinh doanh hoa lan, cây kiểng tăng nhanh kể từ năm 2003 từ 264 điểm đến nay đã trên 1/000 cơ sở lớn nhỏ trên địa bàn Thành phố hồ chí minh. Riêng trên toàn quốc, số lượng những cửa hàng hoa tăng gấp rất nhiều lần so sánh với năm 2000 cho biết nhu cầu tiêu sử dụng hoa của người dân tăng nhanh. Theo thống kê của Sở NN & PTNT Thành phố hồ chí minh trong năm 2003 doanh số kinh doanh hoa lan cây kiểng chỉ đạt 200 – 300 tỉ đồng nhưng đến năm 2005 đã tăng đến 600 – 700 tỉ đồng và ngay lúc đầu năm 2006 doanh số đạt được là 400 tỉ đồng.
3/1/4/ Điều kiện thời tiết, lao động, đất đai
Tp hồ chí minh và những tỉnh lân cận có khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm cao nên phù hợp cho việc trồng những giống Dendrobium và Mokara. Nhất là việc trồng Mokara tại Thành phố hồ chí minh cho biết Mokara tăng trưởng và ra bông tốt hươn trồng tại Thái Lan.
Bên cạnh đó, lực lượng lao động cho việc trồng lan không cần nhiều, có thể dùng lực lượng nông nhàn để theo dõi, chăm sóc cho cây hoa cũng là một ưu thế cho ngành hoa lan Việt Nam.
Các khu vực đất phèn nặng hoặc phai màu là địa điểm phù hợp để người dân chuyển đổi từ sản xuất trồng lúa hoặc rau cải cho thu nhập thấp sang trồng hoa lan cho thu nhập cao. Diện tích các khu vực đất phèn nặng và phai màu chiếm số lượng lớn ở Thành phố hồ chí minh đang được Thành phố hồ chí minh đưa vào qui hoạch các khu vực cần thay đổi cơ cấu kinh tế cây trồng sẽ hỗ trợ cho hàng ngàn nông dân thay đổi tập quán trồng trọt từ cây lúa, cây rau sang cây hoa có giá trị cao.
3/2/ Những nhân tố tác động chính đến sự phát triển công nghiệp hoa lan Việt Nam
3/2/1/ Giống
Để nhân nhanh những giống lan, biện pháp nhân giống bằng nuôi cấy mô đang được những quốc gia trên toàn cầu ứng dụng. Việt Nam cũng có những phòng nuôi cấy mô nhưng ở qui mô nhỏ, nên nguồn giống chủ yêu là nhập từ Thái Lan, Đài Loan và một số quốc gia Tây Âu như Bỉ, Hà Lan… Do đó giống lan tại Việt Nam phụ thuộc cực kỳ nhiều vào nguồn giống ngoại nhập. Đây chính là một hiện thực đáng lo ngại cho ngành sản xuất hoa lan của Việt Nam nếu tương lai Việt Nam tham dự vào thị trường xuất khẩu hoa lan trên toàn cầu.
Việc nhập khẩu giống từ những nguồn khác nhau gây nên nhiều vấn đề khó khăn cho sự phát triển của ngành công nghiệp hoa lan như chất lượng hoa, sâu hại lây lan qua nhập khẩu và bản quyền tác giả… sẽ khiến cho giá cả của hoa lan Việt Nam cao hơn những nước trong khu vực và rủi ro trong nuôi trồng cũng nhiều hơn.
3/2/2/ Công nghệ sinh học
Khi trồng một số loại hoa cắt cành như hồng, cúc, cẩm chướng… sau khi tiến hành thu hoạch nông dân Việt Nam có xu hướng lưu lại hạt làm giống cho vụ sau. Trái lại việc nhân giống hoa lan phải nhờ đến công nghệ sinh học. Ngày nay cũng có vài công ty tư nhân đang đầu tư thuộc lĩnh vực cấy mô, lai tạo giống phong lan Dendrobium, Mokara hay Oncidium để sinh ra nguồn giống riêng của Việt Nam cho dù hướng nghiên cứu gene phong lan ở Việt Nam chưa được lưu ý đến. Tuy vậy, nếu việc lai tạo những giống phong lan thành công thì đây chính là bước khởi đầu cho công nghiệp hoa lan Việt Nam và cần phải được sự hỗ trợ của đa số ngành khoa học nhất là công nghệ gene trong nông nghiệp.
3/2/3/ Công nghệ trồng trọt, sản xuất hoa lan
Tuy hoa lan không cần đất để phát triển nhưng việc ứng dụng công nghệ trồng trọt hiện đại cực kì quan trọng với mục đích sinh ra các hoa lan có màu sắc, kích cỡ, số lượng hoa trên cành, tính bền, khả năng ra bông và tính kháng bệnh của cây với chất lượng cao và giá cả thấp.
Chức năng của hoa lan và hoa cắt cành ở Việt Nam mới chỉ trở thành quan trọng trong trong một vài năm trở lại đây, nhưng những qui trình công nghệ hiện đại ứng dụng thuộc lĩnh vực hoa lan chưa được lựa chọn và nghiên cứu đầy đủ trong hoàn cảnh sinh thái của Việt Nam. Đa số là học tập và mô phỏng theo kỹ thuật trồng của Thái Lan ở qui mô cá thể với diện tích chưa đủ lớn để sinh ra sự thay đổi sâu sắc trong tập quán trồng hoa của nông dân Việt Nam, trong đó vấn đề sâu hại gây bệnh là nhân tố quyết định cho sản xuất lan công nghiệp.
Hầu hết nông dân Việt Nam trồng hoa lan ở qui mô hộ gia đình từ vài m2 đến vài ngàn m2, cá biệt có vài hộ sản xuất kinh doanh trồng trên 1-2 hecta. Chính bởi qui mô nhỏ lẻ và nguồn giống phân tán nhập từ nhiều nguồn khác nhau nên đã dẫn tới chất lượng hoa lan không đều, số lượng trên mỗi giống hoa không đủ cho thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu trong tương lai.
3/2/4/ Công nghệ sau khi thu hoạch
Hoa lan là sản phẩm của ngành nông nghiệp (khác với lan rừng thu hái từ tự nhiên) nên nó cần một công nghệ bảo quản sau khi thu hoạch để giữ cho hoa bền, lâu tàn. Trong điều kiện thời tiết Việt Nam phù hợp cho việc trồng trọt hoa lan nhiệt đới thì cũng chính thời tiết nóng ẩm của ta cũng dễ ảnh hưởng nhiều đến chất lượng hoa lan. Hầu hết nông dân cắt hoa và giao hoa ngay trên các phương tiện vận chuyển thô sơ, không có kho mát hay phòng mát và cũng chưa có vật dụng có chứa dinh dưỡng để cắm mỗi cành hoa vào để giữ cho hoa lâu tàn.
3/2/5/ Thị trường và những giải pháp đẩy nhanh thương mại
Hoa lan và một số loại hoa cắt cành khác đang được phân phối trên thị trường trong nước qua những kênh bán sỉ tại những chợ đầu mối hoa như chợ Hồ Thị Kỳ, Q.10/ Những cửa hàng kinh doanh hoa mua trực tiếp từ những vườn hoặc thông qua những cơ sở tư nhân thu gom từ những vườn lan.
Ngày nay tuy chưa có một tổ chức hay doanh nghiệp nào đứng ra tổ chức hệ thống thu mua và phân phối hoa lan cho thị trong nước, nhưng những hộ kinh doanh hoa, những cửa hàng bán hoa đã cực kỳ nhanh nhạy nắm bắt tâm lý của người trồng hoa là cần có đầu ra ổn định nên đã có các thỏa thuận ở mức sơ khai của hình thức hợp đồng kinh tế, lấy uy tín là chính và việc đặt cọc tiền giữa 2 bên chỉ có giá trị biểu trưng cho sự thỏa thuận giữa hai bên. Cho tới ngày nay chưa có hợp đồng nào có giá trị ở mức cao và cũng chưa có thỏa thuận nào bị “bể” giữa bên bán và mua do cầu khi nào cũng cao hơn cung đối với hoa lan.
So sánh với những quốc gia trong khu vực, hoa cắt cành của Việt Nam cũng đã có thị trường xuất khẩu và mức tăng trưởng mỗi năm đều tăng cao hơn so sánh với năm trước. Tuy vậy đối với hoa lan, nhất là hoa lan nhiệt đới thị trường xuất khẩu vẫn còn là thị trường tiềm năng. Để có thể tiến vào thị trường hoa lan cắt cành hay lan chậu của thế giới, ngành công nghiệp hoa lan Việt Nam còn cực kỳ nhiều vấn đề cần phải quan tâm.
3/3/ Những thách thức trong suốt sự hình thành và phát triển
Cho dù những thời cơ phát triển hoa lan Việt Nam là rất rộng lớn nhưng những nhân tố đó cũng chính là các thách thức cần phải được quan tâm cho sự phát triển của ngành công nghiệp hoa lan còn non trẻ của Việt Nam như:
– Sản xuất lai tạo giống lan trong nước bằng cách nuôi cấy mô chưa có đột phá mới. Đa phần những phòng cấy mô chỉ cấy chuyền những giống nhập từ nước ngoài ở dạng chồi/phôi, vậy nên ngành kinh doanh lan Việt Nam luôn bị động và có xu hướng hập khẩu là chính.
– Kinh phí đầu tư cơ sở hạ tầng còn cao nên việc gia tăng diện tích trồng lan cần phải có sự quan tâm hỗ trợ của những tổ chức tín dụng.
– Chưa có kỹ thuật sản xuất hiện đại, sản xuất trồng trọt hoa ổn định không theo mùa vụ sẽ giúp bình ổn giá hoa trên thị trường.
– Công nghệ sau khi thu hoạch và kỹ thuật đóng gói thích hợp chưa sẵn sàng.
– Kinh phí lao động có kỹ thuật tăng cao.
– Dịch vụ hậu cần tại những cảng xuất hàng còn yếu kém như chưa có kho mát tại sân bay.
– Những đòi hỏi kiểm dịch nghiêm ngặt của những nước nhập khẩu hoa trong khi Việt Nam chưa có hệ thống và giải pháp kiểm tra bông nhập khẩu từ những nước khác.
– Hệ thống thông tin, tiếp thị hầu hết chưa có nên cực khó khăn trong việc hoạch định sản xuất theo nhu cầu thị trường.
– Công nghiệp hoa lan chưa được quan tâm đúng mức của những cấp chính quyền nên chưa có các giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy ngành hoa lan phát triển.
3/4/ Một vài những giải pháp chiến lược phát triển ngành hoa lan Việt Nam
3/4/1/ Biện pháp về giống
– Lai tạo, lựa chọn giống mới theo biện pháp nhân giống truyền thống: Nỗ lực triển khai những giải pháp lai chéo giữa những giống lan cùng nhau để sinh ra những giống mới. Biện pháp lai vẫn triển khai trên nền tảng di truyền cổ điển, tuy vậy để hạ thiểu kinh phí và thời gian, công nghệ sinh học phân tử cần tham dự vào ở thời kỳ mầm chồi để xác định những tổ hợp lai mới.
– Kỹthuật gene: ứng dụng thành tựu lựa chọn gene trong nông nghiệp, nghiên cứu lựa chọn gene phong lan bằng những kỹ thuật gene.
– Nhân giống đột biến: chọn các cây lai đột biến mang cách tính trạng nổi trội thích hợp với thị trường và nhân giống vô tính bằng cách cấy mô.
3/4/2/ Ứng dụng thành tựu của những nước trong khu vực về trồng trọt hoa lan như
Khuyến khích dùng giá thể xơ dừa + than vụn hoặc giá thể bằng vỏ đậu phộng. Ứng dụng sản xuất theo GAP để bảo vệ môi trường và khống chế sâu hại đúng kỹ thuật.
3/4/3/ Công nghệ bảo quản sau khi thu hoạch và dịch vụ hậu cần
– Ngành nhựa cần sự quan tâm đến việc cung ứng những tube (ống) có chứa dụng dịch bảo quản hoa sau khi tiến hành cắt khỏi cành.
– Nghiên cứu những công thức bảo quản hoa thích hợp với điều kiện vận chuyển tại Việt Nam.
3/4/4/ Những hỗ trợ về cơ sở hạ tầng
Những phương tiện thiết bị chuyên sử dụng để cho ngành hoa, những kênh thông tin, tiếp thị sản phẩm giúp người trồng dự báo được giá thành, nhu cầu thị trường để tự hoạch định sản xuất.
3/4/5/ Những văn bản luật, những tiêu chuẩn sản phẩm
Cần phải được ban hành trong khoảng thời gian ngắn nhất để người trồng tiếp cận, tránh được rào cản về thuế quan, kiểm dịch thực vật nghiêm ngặt của những nước nhập khẩu.
3/4/6/ Nguồn nhân lực
Lực lượng lao động trong những lĩnh vực sản xuất, sau khi thu hoạch, xếp dỡ, phát triển sản phẩm, công nghệ sinh học, kỹ thuật gene, đấu giá… cần được đào tạo mau chóng vì việc này có thể trở nên khiếm khuyết rất nghiêm trọng trong sự cạnh tranh mạnh mẽ toàn thế giới khi nước ta là thành viên WLớn.
3/4/7/ Hỗ trợ tín dụng
Ngành hoa lan cần vốn tương đối lớn và thời gian tương đối dài để phát triển vậy nên cần phải được những tổ chức tín dụng quan tâm hỗ trợ.
Tuy ngành sản xuất hoa lan Việt Nam còn khoảng cách cực kỳ xa so sánh với những nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore, Malaysia… nhưng tương lai của hoa lan Việt Nam cực kỳ xán lạng do vẫn còn nhiều quỹ đất để phát triển, nguồn gene lan rừng cực kỳ quí báu dồi dào nhưng chưa được khai thác, con người Việt Nam thông minh siêng năng và nắm bắt cực kỳ nhanh công nghệ hiện đại.
Trước tiên ngành sản xuất hoa lan cần mở rộng sản xuất cung ứng cho thị trường trong nước, dùng những giống lai tạo mới, dùng hiệu quả những thành tựu của công nghệ sinh học. Chính phủ cần khuyến khích nông dân chuyển đổi diện tích cây trồng thu nhập thấp sang trồng lan với những chính sách hỗ trợ về vốn, kỹ thuật sản xuất chuyên sâu. Kêu gọi những Doanh nghiệp tư nhân tham dự tích cực vào lĩnh vực công nghệ sinh học và di truyền cho ngành công nghiệp hoa lan nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm làm động lực cho sự phát triển của ngành. Chính phủ cũng cần đẩy mạnh công tác thị trường và năng lực thị trường bằng phương pháp hợp tác giữa khu vực tư nhân và những tổ chức nhà nước để quản bá sản phẩm và xâm nhập thị trường mới.
Nguồn: Giáo trình Hoa Lan – Đại học Thái Nguyên (Trường Đại học Nông Lâm)