Tiểu luận: Vị trí, vai trò của nhà nước trong quản lý xã hội ở Việt Nam
Tải miễn phí bài Tiểu luận: Vị trí, vai trò của nhà nước trong quản lý xã hội ở Việt Nam, các bạn có thể tải về kham khảo miễn phí, đây là đề tài tiểu luận môn Chính trị học được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, ngoài ra các bạn có thể kham khảo thêm các bài tiểu luận về Vị trí, vai trò của nhà nước và tiểu luận về quản lý xã hội ở Việt Nam trên chuyên mục tiểu luận Chính trị học.
Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Môn Chính trị học nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng quaZalo: https://zalo.me/0932091562
Nội Dung Chính
PHẦN 1: VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ XÃ HỘI
1.1. Khái niệm và bản chất của Nhà nước
1.1.1. Khái niệm Nhà nước
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và quản lý xã hội nhằm thực hiện và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Bản chất của Nhà nước
Theo quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước xét về bản chất, là một hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc, tồn tại dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định; là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là một tổ chức quyền lực đặc biệt, có bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý nhằm thực hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng.
Bản chất của nhà nước thể hiện dưới hai đặc tính cơ bản:
Thứ nhất, là tính giai cấp của Nhà nước: thể hiện ở chỗ nhà nước là công cụ thống trị trong xã hội để thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản chất của nhà nước chỉ rõ nhà nước đó là của ai, do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo, phục vụ lợi ích của giai cấp nào?
Trong xã hội bóc lột (xã hội chiếm hữu nô lê, xã hội phong kiến, xã hội tư sản) nhà nước đều có bản chất chung là thiết chế bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột trên 3 mặt: Kinh tế, chính trị và tư tưởng.
Vì vậy, nhà nước tồn tại với hai tư cách:
Một là bộ máy duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác.
Hai là tổ chức quyền lực công – tức là nhà nước vừa là người bảo vệ pháp luật vừa là người bảo đảm các quyền của công dân được thực thi.(Tiểu luận: Vị trí, vai trò của nhà nước trong quản lý xã hội ở Việt Nam)
Thứ hai là tính xã hội hay còn gọi là vai trò kinh tế – xã hội của Nhà nước. Trong nhà nước, giai cấp thống trị chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các tầng lớp giai cấp khác, do vậy ngoài tư cách là công cụ duy trì sự thống trị, nhà nước còn là công cụ để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội.
Ví dụ: Nhà nước giải quyểt các vấn đề nảy sinh từ đời sống xã hội như: đói nghèo, bệnh tật, chiến tranh, các vấn đề về môi trường, phòng chống thiên tai, địch hoạ, về dân tộc, tôn giáo và các chính sách xã hội khác…
Bảo đảm trật tự chung- bảo đảm các giá trị chung của xã hội để tồn tại và phát triển
Như vậy, vai trò kinh tế – xã hội là thuộc tính khách quan, phổ biến của Nhà nước. Tuy nhiên, mức độ biểu hiện cụ thể và thực hiện vai trò đó không giống nhau giữa các nhà nước khác nhau. Vai trò và phạm vi hoạt động của nhà nước phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển cũng như đặc điểm của mỗi nhà nước, song phải luôn tính đến hiệu quả hoạt động của nhà nước.
Để hoạt động có hiệu quả, nhà nước phải chọn lĩnh vực hoạt động nào là cơ bản, cần thiết để tác động. Bởi nếu không có sự quản lý của nhà nước sẽ mang lại hậu quả xấu cho xã hội. Vì vậy, vai trò của nhà nước chỉ nên hoạt động và quản lý trên năm lĩnh vực sau:
– Ban hành pháp luật và có các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật.
– Ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô, điều tiết, điều phối các chính sách kinh tế – xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.
– Đầu tư, cung cấp hàng hoá dịch vụ xã hội cơ bản (cấp phép, kiểm dịch, kiểm định, giám sát, kiểm tra các lĩnh vực.v.v…)
– Giữ vai trò là người bảo vệ những nhóm người yếu thế và dễ bị tổn thương trong xã hội (người già, trẻ em, người tàn tật.v.v…)
– Hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, giao thông; phòng chống thiên tai, bão lụt.v.v…
– Ngày nay các nước trên thế giới đều chú ý quan tâm nhiều đến vai trò xã hội của nhà nước vì sự tồn vong của cộng đồng xã hội.
1.2. Vai trò của chức năng xã hội
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, nhà nước tiếp cận dưới góc độ triết học có hai chức năng là chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Chức năng giai cấp là chức năng bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền. Chức năng xã hội là chức năng đảm bảo cho xã hội ổn định và phát triển. Là những nhà duy vật biện chứng nên trong khi nhấn mạnh chức năng giai cấp của nhà nước, Mác và Ăngghen không hề coi nhẹ chức năng xã hội của nhà nước.
Theo các ông, xét từ cội nguồn quyền lực, nhà nước là một công quyền “nảy sinh từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối lập giai cấp”, “có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”; là một bộ máy quản lý xã hội, có chức năng bảo đảm lợi ích chung của cả cộng đồng, xã hội. Những nhiệm vụ đó của nhà nước thuộc phạm vi chức năng xã hội – chức năng yêu cầu nhà nước phải thực hiện những nhiệm vụ vì sự tồn tại của cả xã hội.
Chức năng xã hội của nhà nước là tất yếu, khách quan, mức độ thực hiện chức năng này phụ thuộc vào tính tiến bộ hay phản động của giai cấp cầm quyền. “Các giai cấp thống trị ở thời điểm phát triển đi lên của mình, đã thực hiện chức năng xã hội hoàn toàn xác định và chính nhờ điều đó họ mới trở thành giai cấp thống trị”. Ngược lại, các giai cấp cầm quyền khi trở nên lỗi thời, phản động thì thường quá coi trọng chức năng giai cấp, coi nhẹ chức năng xã hội, không quan tâm đến đời sống của người dân, đẩy người dân đến cảnh khốn cùng, đó là thời điểm báo hiệu địa vị thống trị bị lung lay và sắp sụp đổ, bởi “Sự thống trị giai cấp chỉ có thể tồn tại với điều kiện là nó đảm bảo cho được những người bị áp bức không bị nghèo túng đến cùng cực”. Khi “những người bị áp bức nghèo túng đến cùng cực” thì họ sẽ nổi dậy đấu tranh nhằm lật đổ nhà nước hiện tồn, thiết lập một nhà nước mới, có thể thực hiện chức năng xã hội tốt hơn.
Từ đó có thể thấy, thực hiện tốt chức năng xã hội có vai trò vô cùng quan trọng trong việc củng cố địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền, của lực lượng cầm quyền. Chính chức năng xã hội là cơ sở, điều kiện và phương thức thực hiện chức năng giai cấp như C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó”.
Chức năng xã hội của nhà nước thể hiện ở hai nhóm nhiệm vụ cụ thể sau:(Tiểu luận: Vị trí, vai trò của nhà nước trong quản lý xã hội ở Việt Nam)
Một là, nhà nước phải chăm lo những công việc chung của toàn xã hội, tất cả các giai cấp trong xã hội đều được hưởng lợi khi nhà nước thực hiện những công việc đó, thí dụ như: nhà nước bảo đảm trật tự an toàn xã hội; chống ô nhiễm môi trường, sinh thái; phòng chống lây lan dịch bệnh; xây dựng các công trình phúc lợi, công cộng…
Hai là, nhà nước phải thỏa mãn ở mức độ nào đó nhu cầu của các giai tầng khác trong xã hội, tức là phải thực hiện những chính sách đem lại lợi ích cho các giai tầng bị trị ở mức độ nhất định, dù cho những chính sách đó có thể ảnh hưởng đến lợi ích trước mắt của giai cấp cầm quyền. Thí dụ như nhà nước phong kiến giảm tô, giảm thuế, mở kho lương cứu đói cho nông dân; nhà nước tư sản thực hiện chính sách “tăng lương giảm giờ làm” đối với giai cấp công nhân… Như vậy, chức năng xã hội là đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của tất cả các thành phần trong xã hội ở một mức độ nhất định nào đó.
1.3. Vị trí, vai trò của Nhà nước trong quản lý xã hội
Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội là những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời cũng là những yếu tố quan trọng quyết định sự ổn định xã hội. Trong phạm vi của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập tới một trong những vấn đề quan trọng trên – đó là vai trò của nhà nước về quản lý xã hội.
Trong các học thuyết về đạo đức và pháp quyền, người ta thường xem xét trách nhiệm trong mối liên hệ với tự do. Nhưng, ngoài chủ nghĩa Mác, vấn đề đó thường được giải quyết một cách trừu tượng và lệ thuộc vào việc trả lời câu hỏi: nói chung, liệu có thể coi con người là tự do trong những hành động của mình hay không. Trong chủ nghĩa Mác, vấn đề trách nhiệm mang tính lịch sử – cụ thể và được giải quyết trên cơ sở phân tích mức độ tự do hiện thực của con người trong những điều kiện lịch sử nhất định. Việc xây dựng một xã hội không có bóc lột, không có những giai cấp thù địch, việc áp dụng nguyên lý tự giác một cách có kế hoạch vào đời sống xã hội, việc làm cho quần chúng nhân dân quen với việc tự quản lý xã hội và sáng tạo lịch sử sẽ tăng cường mạnh mẽ mức độ tự do của cá nhân và đồng thời, tăng cường trách nhiệm xã hội và đạo đức của mỗi người. Trong pháp luật xã hội chủ nghĩa, trách nhiệm công dân, trách nhiệm hành chính và hình sự của kẻ vi phạm pháp luật được xác định không phải bằng con đường vạch ra cấu tạo của tội phạm một cách thuần tuý hình thức, mà phải tính đến tình hình giáo dục, đời sống và hoạt động của người đó, mức độ nhận thức tội lỗi và khả năng sửa chữa trong tương lai. Điều đó làm cho trách nhiệm pháp lý xích gần lại với trách nhiệm đạo đức. Trong đạo đức cộng sản chủ nghĩa, trách nhiệm của cá nhân không chỉ bao hàm những hành vi đã làm, mà cả sự nhận thức của cá nhân về lợi ích của xã hội nói chung, nghĩa là xét đến cùng, nhận thức được các quy luật phát triển của lịch sử. (Tiểu luận: Vị trí, vai trò của nhà nước trong quản lý xã hội ở Việt Nam)
Như vậy, có thể nói, quản lý xã hội bao gồm ba nội dung cơ bản là:
– Thứ nhất, quan hệ giữa người với người cùng chung sống, hợp tác khoan dung với nhau trong xã hội.
– Thứ hai, sự gắn bó (đoàn kết, cố kết) giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội.
– Thứ ba, quản lý xã hội phải đóng góp vào sự bảo vệ và phát triển bền vững của cộng đồng và xã hội. Sự đóng gớp này được thể hiện ở ba mức độ: tự nhiên, tự nguyện và nghĩa vụ.
Nhà nước là một yếu tố cấu thành xã hội, đồng thời cũng là chủ thể cơ bản, quan trọng nhất trong quản lý và điều hành sự tồn tại, phát triển xã hội. Đây chính là vai trò, chức năng xã hội, đồng thời cũng là trách nhiệm xã hội của nhà nước, tức điều mà nhà nước phải làm, phải gánh vác, hoặc nhận lấy về mình. Quản lý xã hội của nhà nước do nguồn gốc và bản chất của nó quy định.
Nguồn gốc và bản chất của nhà nước, như Ph.Ăngghen đã vạch rõ, “là sản phẩm của các xung đột giai cấp không thể điều hoà”, “chẳng qua chỉ là một bộ máy của giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác”. Còn “chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiên chức năng xã hội đó của nó”.
Như vậy, nhà nước, một mặt, là bộ máy cưỡng chế đặc biệt, là công cụ quan trọng nhất để duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích giai cấp; mặt khác, trong xã hội có giai cấp đối kháng thì nhà nước của giai cấp thống trị còn phải nhân danh xã hội đảm bảo cho xã hội ở trong trạng thái “trật tự”. Nói cách khác, nhà nước vừa có tính giai cấp, vừa có tính xã hội.
XEM THÊM ==> DOWNLOAD 999+ TIỂU LUẬN CHÍNH TRỊ HỌC
Vai trò quản lý xã hội của Nhà nước được thể hiện ở các hoạt động sau:
- Nhà nước phân chia và quản lý dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ.
Nhà nước thiết lập quyền lực trên các đơn vị hành chính lãnh thổi, quản lý cư dân theo đơn vị hành chính lãnh thổ mà không phụ thuộc vào huyết thống, giới tính, tôn giáo… - Nhà nước thiết lập quyền lực công để quản lý xã hội và nắm quyền thống trị thông qua việc thành lập bộ máy chuyên là nhiệm vụ quản lý nhà nước và bộ máy chuyên thực hiện cưỡng chế (quân đội, nhà tù, cản sát…) để duy trì địa vị của giai cấp thống trị. Còn các tổ chức khác trong xã hội không có quỳen lực này như tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, phụ nữ, đoàn thanh niên, Mặt trận Tổ Quốc.…
- Nhà nước có chủ quyền quốc gia
Chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình.
– Nhà nước tự quyết định về chính sách đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài
- Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện quản lý buộc các thành viên trong xã hội phải tuân theo:
– Nhà nước ban hành pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế.
– Thông qua pháp luật, ý chí của nhà nước trở thành ý chí của toàn xã hội, buộc mọi cơ quan, tổ chức, phải tuân theo.
– Trong xã hội, chỉ có Nhà nước mới có quyền ban hành luật và áp dụng pháp luật.
- Nhà nước quy định và thực hiện thu thuế dưới hình thức bắt buộc
– Để duy trì bộ máy nhà nước.
– Bảo đảm cho sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng,
– Giải quyết các công việc chung của xã hội
Qua năm đặc trưng trên nhằm phân biệt nhà nước với các tổ chức chính trị, chính trị xã hội khác (Đảng phái chính trị, Đoàn thanh niên, hiệp hội…), đồng thời cũng là để phân biệt với các tổ chức thị tộc (trong xã hội công xã nguyên thuỷ). Qua đó cho thấy vai trò to lớn của Nhà nước trong hệ thống chính trị mà các tổ chức khác không có.
PHẦN 2: VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Yêu cầu thực hiện chức năng xã hội trong hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu trong thời đại ngày nay, nước nào đứng ngoài xu thế này sẽ khó có thể phát triển được. Đối với những nước đang phát triển, nghèo nàn, lạc hậu thì hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là một cơ hội tốt để thu hút nguồn vốn đầu tư, tiếp cận công nghệ tiên tiến, học hỏi trình độ quản lý hiện đại,… nhằm phát triển kinh tế – xã hội. Nhận thức sâu sắc về ý nghĩa của hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, Đảng ta chủ trương chủ động tham gia vào quá trình này.(Tiểu luận: Vị trí, vai trò của nhà nước trong quản lý xã hội ở Việt Nam)
Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay là hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mà kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tất yếu dẫn tới nhiều thành phần xã hội, tức cơ cấu giai tầng trong kinh tế thị trường sẽ đa dạng và phong phú hơn. Đa dạng về thành phần xã hội tất sẽ đa dạng về lợi ích và nhu cầu. Đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng và đa dạng của các thành phần trong xã hội thuộc về chức năng xã hội của nhà nước.
Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, bên cạnh những mặt tích cực cũng đã nảy sinh những vấn đề xã hội, đòi hỏi Nhà nước phải cấp bách giải quyết như: nạn thất nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại cho người sản xuất kinh doanh chân chính; các tệ nạn xã hội, tội phạm mang tính quốc tế gia tăng, ảnh hưởng môi trường xã hội; do điều kiện địa lý, các vùng sâu, vùng xa có nguy cơ tụt hậu vì không thu hút được đầu tư; do lợi nhuận chi phối nên những nhóm ngành nghề rất cần cho xã hội nhưng lợi nhuận thấp dễ bị bỏ rơi,… Những vấn đề đó đang đòi hỏi Nhà nước phải nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng xã hội.
Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa sẽ làm gia tăng việc hợp tác quốc tế, đầu tư sản xuất, kinh doanh, thương mại, học tập, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm,.. Có nghĩa là, các tổ chức, cá nhân thuộc mọi giai tầng của các nước trên thế giới sẽ đến nước ta nhiều hơn. Bởi vậy, chức năng xã hội của Nhà nước trong hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa không chỉ là đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi của các cá nhân, tổ chức mang quốc tịch Việt Nam, mà còn phải đáp ứng những lợi ích và nhu cầu hợp pháp của cả những tổ chức, cá nhân mang quốc tịch nước ngoài ở Việt Nam. Các cá nhân và tổ chức nước ngoài thuộc nhiều giai tầng khác nhau, đến từ nhiều nước khác nhau, do đó họ có lợi ích và nhu cầu rất đa dạng. Để đáp ứng những nhu cầu, lợi ích đa dạng của các tổ chức cá nhân nước ngoài, thu hút họ đến Việt Nam hợp tác đòi hỏi Nhà nước phải nâng cao năng lực thực hiện chức năng xã hội của mình; cũng là đáp ứng ở mức độ nhất định nào đó nhu cầu chính đáng của tất cả các giai tầng, thành phần trong xã hội.
Trong quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, các tổ chức, cá nhân người Việt Nam ra nước ngoài hợp tác, đầu tư, học tập, nghiên cứu, tham quan du lịch,… Do đó, chức năng xã hội của Nhà nước không chỉ đáp ứng những nhu cầu chính đáng của những giai tầng trong nước mà còn phải mở rộng đến việc đáp ứng nhu cầu, lợi ích của các tổ chức, cá nhân mang quốc tịch Việt Nam nhưng ở nước ngoài(Tiểu luận: Vị trí, vai trò của nhà nước trong quản lý xã hội ở Việt Nam)
2.2. Vị trí, vai trò của Nhà nước trong quản lý xã hội ở Việt Nam hiện nay
Để đảm bảo lợi ích giai cấp của mình, nhà nước cần phải đưa ra những phương hướng, biện pháp nhằm tác động một cách tổng thể đến các vấn đề liên quan tới cộng đồng xã hội vì lợi ích chung của cộng đồng và của xã hội. Đây chính là những nhiệm vụ cơ bản trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của nhà nước đối với cộng đồng, với xã hội. Theo chúng tôi, vị trí, trai trò quản lý xã hội đó của nhà nước được thể hiện ở một số nhiệm vụ cơ bản sau:
XEM THÊM 999+==> DANH SÁCH TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
2.2.1. Xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động của đời sống xã hội.
Pháp luật là công cụ chủ yếu, quan trọng nhất để nhà nước thực hiện vai trò quản lý và điều hành xã hội. Để thực hiện tốt vai trò này, nhà nước phải có trách nhiệm tổ chức xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ và ổn định nhằm, một mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên trong xã hội yên tâm, tích cực tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội; mặt khác, phải bảo vệ những lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức xã hội hướng tới công bằng và tiến bộ xã hội.
Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật phải đảm bảo và thoả mãn được các yêu cầu: đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, nhất quán, thông thoáng, nghiêm túc, phù hợp với thông lệ quốc tế.(Tiểu luận: Vị trí, vai trò của nhà nước trong quản lý xã hội ở Việt Nam)
Đối với Việt Nam, để xây dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ và ổn định, theo chúng tôi, cần dựa trên những nguyên tắc sau:
– Một là, pháp luật phải cụ thể hoá những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ sự tồn tại và phát triển của xã hội.
– Hai là, pháp luật phải phù hợp với thực tế cuộc sống, bắt đầu từ cuộc sống và có sự tham gia đóng góp ý kiến rộng rãi của các thành viên trong cộng đồng xã hội.
– Ba là, song song với việc xây dựng luật pháp, phải có hệ thống những giải pháp hợp lý, khả thi trong việc tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống.
2.2.2. Xây dựng và đảm bảo thực hiện các chính sách xã hội.
Chính sách xã hội luôn gắn liền với chế độ xã hội. Các xã hội khác nhau đều có những chính sách xã hội phù hợp với bản chất xã hội của mình; do đó, chính sách xã hội luôn có tính lịch sử – cụ thể và được giải quyết trên cơ sở những đặc thù của từng xã hội cụ thể, trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Ở Việt Nam, thực hiện các chính sách xã hội là sự cụ thể hoá các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, là việc thực hiện các lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nhằm tác động trực tiếp vào con người, hướng tới mục đích đảm bảo, thoả mãn ngày một tốt hơn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của nhân dân. Chính sách xã hội thể hiện vai trò, trách nhiệm xã hội của nhà nước, phản ánh bản chất của chế độ xã hội. Việt Nam là một nước đang phát triển, nhưng Nhà nước Việt Nam đã sớm có chủ trương phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời đặt chính sách xã hội trong sự phát triển kinh tế. Đây là giải pháp có hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách xã hội của Việt Nam được quốc tế đánh giá cao, đặc biệt là những chính sách “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” và “xoá đói giảm nghèo”.
2.2.3. Quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, ở Việt Nam, mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường đang được nhìn nhận lại. Nhiều hàng hoá, dịch vụ trước đây từng là lĩnh vực độc quyền của khu vực quốc doanh ngày càng được khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cung ứng nhiều hơn. Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất, đặc biệt là sự phát triển của khoa học và công nghệ đã cho phép khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng sức cạnh tranh trên những thị trường vốn được xem là độc quyền tự nhiên của Nhà nước. Đây chính là động lực thúc đẩy sự thay đổi mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, dẫn tới nhà nước và thị trường cùng chia sẻ sự điều tiết phát triển kinh tế.(Tiểu luận: Vị trí, vai trò của nhà nước trong quản lý xã hội ở Việt Nam)
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nét đặc trưng của nền kinh tế này được quy định bởi điều kiện kinh tế cụ thể, cũng như mục tiêu phát triển xã hội của Việt Nam – đó là mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Mục tiêu này cũng chính là định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Đây là nhiệm vụ đặc thù của Nhà nước Việt Nam khó khăn hơn rất nhiều so với các nước khác phát triển kinh tế theo con đường không phải xã hội chủ nghĩa. Việt Nam xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên việc kết hợp một cách hợp lý giữa sự quản lý của Nhà nước và sự điều tiết của cơ chế thị trường. Sự kết hợp này không chỉ đơn thuần là xác định những lĩnh vực nào Nhà nước cần làm và những lĩnh vực nào Nhà nước không nên làm, mà còn là sự kết hợp, kiểm kê, kiểm soát, điều chỉnh và định hướng thường xuyên sự phát triển của nền kinh tế theo hướng tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội. Về thực chất, định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển kinh tế là sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình phát triển và hoàn thiện nền kinh tế. Để thực hiện tốt vai trò này, Nhà nước tác động đến sự phát triển của nền kinh tế không chỉ thuần tuý bằng sức mạnh kinh tế của mình, mà còn với tư cách chủ thể quản lý và điều hành mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội, bằng tất cả lực lượng, sức mạnh tổng hợp về kinh tế, chính trị, xã hội.
2.2.4. Đảm bảo cung cấp các dịch vụ công cho xã hội
Phục vụ xã hội và đảm bảo xã hội là hai chức năng xã hội cơ bản của nhà nước. Với vai trò là chủ thể quản lý và điều hành xã hội, Nhà nước ta có trách nhiệm đảm bảo các dịch vụ công cho xã hội thông qua hai phương thức sau:
– Trực tiếp cung ứng các dịch vụ công thông qua hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích hoặc các đơn vị sự nghiệp.
– Uỷ nhiệm dịch vụ công cho các tổ chức xã hội thực hiện. (Tiểu luận: Vị trí, vai trò của nhà nước trong quản lý xã hội ở Việt Nam)
Ngoài những loại dịch vụ mà Nhà nước cần phải trực tiếp nắm giữ vì lợi ích của toàn xã hội và để giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia, những loại dịch vụ công còn lại được Nhà nước chuyển giao cho các tổ chức xã hội không thuộc khu vực nhà nước thực hiện dưới sự kiểm soát bằng công cụ pháp luật và các đòn bẩy kinh tế và có thể mua lại các dịch vụ công của các tổ chức xã hội để giữ quyền phân phối, đảm bảo dịch vụ công cho xã hội ngày càng đa dạng và ổn định.
2.2.5. Thực hiện quá trình phân phối nguồn lực và lợi ích theo nguyên tắc đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội.
Vai trò của Nhà nước trong phân phối thể hiện ở nhiều góc độ: thiết lập các khuôn khổ pháp luật nhằm điều tiết, đa dạng hoá các hình thức phân phối theo nguyên tắc cơ bản là phân phối theo lao động kết hợp với sự phân phối theo mức độ đóng góp vốn, các nguồn lực khác và sự cống hiến cho sự phát triển kinh tế – xã hội; tổ chức kiểm tra, giám sát quá trình phân phối, sử dụng các công cụ của mình để trực tiếp hoặc gián tiếp can thiệp vào quá trình phân phối nhằm thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế và công bằng xã hội.
Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết quá trình phân phối thông qua một số công cụ quan trọng sau:
– Phân phối bằng công cụ thuế.
– Phân phối qua ngân sách Nhà nước.
– Phân phối qua hệ thống tín dụng.
– Phân phối qua hệ thống an sinh xã hội.
2.2.6. Đại diện cho quốc gia, dân tộc tham gia vào các hoạt động chung của khu vực và thế giới
Đồng thời với nhiệm vụ đảm bảo lợi ích dân tộc, chủ quyền và an ninh quốc gia, Nhà nước còn phải đại diện cho quốc gia, dân tộc tham gia vào các hoạt động chung của thế giới một cách tích cực và chủ động nhằm mục đích xây dựng một thế giới văn minh, hoà bình, hữu nghị và phồn vinh.
Để hoàn thành tốt vai trò to lớn trong việc tổ chức và thực hiện trách nhiệm xã hội, Nhà nước Việt Nam đang tiếp tục đổi mới để thực hiện một cách có hiệu quả việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên đây là tiểu luận môn Chính trị học đề tài: Vị trí, vai trò của nhà nước trong quản lý xã hội ở Việt Nam,, dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học đại cương: còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé.
Lưu ý: Có thể trên website không có tài liệu đúng như các bạn mong muốn để hoàn thiện bài làm hoàn toàn mới và chất lượng tốt các bạn có thể cần tới sự hỗ trợ của dịch vụ viết tiểu luận để kham khảo bảng giá và quy trình làm việc các bạn có thể trao đổi với mình qua SDT/Zalo: https://zalo.me/0932091562
DOWNLOAD FILE