Tiểu luận Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn vào quá trình đổi mới ở Việt Nam – Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nước ta đang trên con đường tiến lên công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy việc nắm vững các quan điểm thực tiễn, phát triển lí luận nhằm đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên giành thắng lợi luôn là vấn đề cần thiết cần sự quan tâm của cả xã hội.
Trong xã hội , triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng. luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội cho hoạt động. Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác – Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua hai mươi năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn nội dung “Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn vào quá trình đổi mới ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Qua việc vận dụng nghiên cứu mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới nhằm giúp Đảng và Nhà nước ta có nhận thức, vận dụng đúng đắn những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình đổi mới trên tất cả các lĩnh vực. Trên cơ sở đó rút ra kinh nghiệm tổng kết thực tiễn. Đổi mới trên cơ sở vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò sáng tạo chủ động của nhân dân xuất phát từ thực tiễn nhạy bén cái mới.
3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đây là một đề tài rộng được nhiều tác giả nghiên cứu. Tôi xin trình bày quá trình Đảng và Nhà Nước ta vận dụng mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn để đổi mới đất nước trên tất cả các lĩnh vực .Từ đó tìm ra những mặt tiêu cực, hạn chế còn tồn tại để trong quá trình đổi mới để đưa ra những giải pháp phù hợp.
4.Phương pháp nghiên cứu.
Tiểu luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương chính sách nghị quyết của Đảng và Nhà nước ta. Cùng với phương pháp trên, tiểu luận còn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp so sánh, thu thập tài liệu.
5. Kết cấu của đề tài.
Tiểu luận bao gồm: phần mở đầu; kết luận, danh mục ghi tài liệu tham khảo; phần phụ lục và phần nội dung gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận chung.
Chương II: Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn để tìm hiểu quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay.
Chương III. Một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn trong việc phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
43 trang
|
Chia sẻ: tuandn
| Lượt xem: 6156
| Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước
20 trang
tài liệu Tiểu luận Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn vào quá trình đổi mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VÀO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM.
A.MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nước ta đang trên con đường tiến lên công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy việc nắm vững các quan điểm thực tiễn, phát triển lí luận nhằm đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên giành thắng lợi luôn là vấn đề cần thiết cần sự quan tâm của cả xã hội.
Trong xã hội , triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng… luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội cho hoạt động. Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác – Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua hai mươi năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn nội dung “Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn vào quá trình đổi mới ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Qua việc vận dụng nghiên cứu mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới nhằm giúp Đảng và Nhà nước ta có nhận thức, vận dụng đúng đắn những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình đổi mới trên tất cả các lĩnh vực. Trên cơ sở đó rút ra kinh nghiệm tổng kết thực tiễn. Đổi mới trên cơ sở vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò sáng tạo chủ động của nhân dân xuất phát từ thực tiễn nhạy bén cái mới.
3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đây là một đề tài rộng được nhiều tác giả nghiên cứu. Tôi xin trình bày quá trình Đảng và Nhà Nước ta vận dụng mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn để đổi mới đất nước trên tất cả các lĩnh vực .Từ đó tìm ra những mặt tiêu cực, hạn chế còn tồn tại để trong quá trình đổi mới để đưa ra những giải pháp phù hợp.
4.Phương pháp nghiên cứu.
Tiểu luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương chính sách nghị quyết của Đảng và Nhà nước ta. Cùng với phương pháp trên, tiểu luận còn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp so sánh, thu thập tài liệu…
5. Kết cấu của đề tài.
Tiểu luận bao gồm: phần mở đầu; kết luận, danh mục ghi tài liệu tham khảo; phần phụ lục và phần nội dung gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận chung.
Chương II: Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn để tìm hiểu quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay.
Chương III. Một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn trong việc phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
B. NỘI DUNG
Chương I:
Cơ sở lí luận.
`1. Thực tiễn.
Khái niệm.
– Định nghĩa:
Hoạt động của con người chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong hai lĩnh vực đó là hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn theo quan điểm triết học Mác xít: Là những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
– Kết cấu của thực tiễn:
Hoạt động sản xuất vật chất: Trong hoạt động vật chất, con người sử dụng các phương tiện, công cụ, sức mạnh vật chất của mình để tác động vào tự nhiên, xã hội nhằm cải tại, biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Đây là một quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể. Trong đó, chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể. Cho nên thực tiễn trở thành khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.
Chỉ có thực tiễn mói trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự mang tính chất phê phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của thực tiễn, là cơ sở để phân biệt hoạt động thực tiễn khác với hoạt động lý luận của con người.
Hoạt động chinh trị – xã hội: Là hoạt động của con người trong các lĩnh vực chính trị – xã hội nhằm phát triển và hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất của con người bằng cách đấu tranh giai cấp và đấu tranh cách mạng.
Hoạt động thực nghiệm khoa học: Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con người phải tạo ra một thế giới riêng cho thực nghiệm của khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội.
Vai trò của thực tiễn.
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn của nhận thức.
– Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. Như vậy, qua hoạt động thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới quan( tạo điều kiện cho nhận thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
– Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần, các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu là mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận động và phát triển của sự vật.
– Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa.
– Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
– Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
+ Chân lý
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn khẳng định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người)
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ: chân lý tôn giáo).
Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt trong quá trình nhận thức của nhân loại.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay không.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
+Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
+Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể chứng minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy mới có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận thức.
* ý nghĩa.
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: công bằng, bình đẳng, tién bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách cũng như các giải pháp kinh tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành tựu to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Những hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và công tác lý luận nói riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Lý luận.
2.1. Định nghĩa.
Lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh những quy luật, của từn lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.
– Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn:
Ví dụ như lý luận Mác – Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản. Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tùy thuộc vào nó được hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan , từ đó mới có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Quan hệ giữa lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận và thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con người.
– Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn. Thực tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của thực tiến.
– Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác – Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản. Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
– Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến bộ và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là một trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
– Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đường lối, chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.
*ý nghĩa.
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là lý luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác – Lênin và các lý luận về kinh tế.
Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động. Hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống xã hội, mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một vấn đề hết sức mới mẻ chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau đó mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng và việc nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau cùng phát triển
Chương II. Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn để tìm hiểu quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay.
2.1.Một số nét sơ lược về quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam trước đổi mới.
* Tình hình:
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, nước ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức sản xuất và dịch vụ quốc doanh được phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xã được tổ chức rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, sở hữu tư nhân bị thu hẹp lại, không còn cơ sở cho tư nhân phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xã được tổ chức rộng rãi vì ta đã học tập được mô hình tổ chức kinh tế của Liên Xô cũ. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được những tính ưu việt đó.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng công cụ kế hoạch hóa, ta đã tập trung được vào trong tay một lực lượng vật chất quan trọng về cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông thôn, đất đai, máy móc, tiền vốn để ổn định và phát triển kinh tế.
Vào những năm sau của thập niên 60, ở Miền Bắc đã có những chuyền biến về kinh tế, xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ ra phù hợp với nền kinh tế tự cung, tự cấp, phù hợp với điều kiện hai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu trong chiến tranh lúc đó.
Năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam, một bức tranh mới về hiện trạng kinh tế Việt Nam đã thay đổi. Đó là sự duy trì một nền kinh tế tồn tại cả ba loại hình:
+Kinh tế cổ truyền (tự cung tự cấp)
+Kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (ở miền Bắc)
+Kinh tế thị trường (đặc trưng ở miền Nam).
Mặc dù đây là một tồn tại khách quan sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trên phạm vi cả nước. Đó là sự áp đặt rất bất lợi.
* Hậu quả:
Do chủ quan nóng vội, cứng nhắc, chúng ta đã không quản lý được hiệu quả các nguồn lực dẫn tới việc sử dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực của đất nước.
– Tài nguyên bị phá hoại, sử dụng khai thác không hợp lý, môi trường bị ô nhiễm.
– Nhà nước bao cấp và tiến hành bù lỗ phổ biến gây hậu quả nghiệm trọng cho nền kinh tế.
+ Sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng kinh tế trên lý thuyết, giấy tờ.
+Hàng hoá, sản phẩm trở nên khan hiếm, không đáp ứng được nhu cầu trong nước.
+Ngân sách thâm hụt nặng nề. Vốn nợ đọng nước ngoài ngày càng tăng và không có khả năng cho chi trả.
+Thu nhập từ nền kinh tế quốc dân không đủ chi dùng, tích luỹ hầu như không có.
+Vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng chủ yếu là dựa vào vay và viện trợ nước ngoài.
– Cùng với đó là sự thoái hoá về mặt con người và xã hội.
– Đến năm 1979, nền kinh tế rất suy yếu, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân khó khăn, nguồn trợ giúp từ bên ngoài giảm mạnh.
– Từ năm 1975 đến năm 1985, các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể bị tiêu diệt hoặc không còn điều kiện phát triển dẫn đến thực trạng tiềm năng to lớn của các thành phần kinh tế này không được khai thác và phục vụ cho mục tiêu chung của nền kinh tế. Ngược lại, thành phần kinh tế quốc doanh đã phát triển ồ ạt, tràn lan trên mọi lĩnh vực trở thành địa vị đọc tôn trong hầu hết các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ (trừ ngành nông nghiệp, thành phần kinh tế tập thể là chủ yếu).Thời điểm cao nhất, thànhphần kinh tế quốc doanhđã cõ gần 13 nghìn doanh nghiệp với số tài sản cố định chiếm 70% tổng số tài sản cố định của nền kinh tế. Thời kỳ này, kinh tế nước ta tuy có đạt được tốc độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có cơ sở để phát triển vì đã dựa vào điều kiện bao cấp, bội chi ngân sách, lạm phát và vay nợ nước ngoài.
– Do phát triển tràn lan lại quản lý theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung nên nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, điều hành các doanh nghiệp quốc doanh, nhiều doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, lực lượng sản xuất không được giải phóng, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng và tụt hậu.
* Nguyên nhân.
Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại trong thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng lý luận và thực tiễn vào tinh hình nước ta.
Đến năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản vẫn chưa bị xoá bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ, nhiều chính sách, thể chế lỗi thời chưa được thay đổi. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời những hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ luật còn khá phổ biến.
Việc đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, việc điều hành không nhạy bén, là những nguyên nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên xuống dưới.
Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, hình thức, bước đi, cách làm cụ thể thì còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được thoả đáng cả về lý luận và thực tiễn.
* Phương hướng chỉ đạo.
Chúng ta đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận trong thời kỳ quá độ:”Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy,đặc biệt là những chính sách kinh tế là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan” (Đảng công sản Việt nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI-1986). Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thừa nhận thật sự những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan.
Chúng ta đã ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách quá mức mà hiệu quả kinh tế phát triển chậm. Hơn thế nữa, ta chưa chú ý đúng mức tới sản xuất nông nghiệp và sản