Tiểu luận Thực trạng phát triển ngành du lịch ở nước ta trong thời gian qua – Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp

Đối với các dự án đầu tư trọng điểm, xây dựng khu điểm du lịch, khu giải
trí Ngân hàng và các tổ chức tín dụng cần có sự ưu đãi trong lãi suất để khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tâng phục vụ du lịch. Đồng
thời các ngân hàng và tổchức tín dụng nâng cao khả năng thẩm định dự án đầu tư
để có thể đưa ra quyết định đầu tư phát triển du lịch một cách đúng đắn có hiệu
quả, và tránh tình trạng cho vay cứng nhắc chỉ dựa vào tái sản thếc hấp mà không
căn cứ vào tính hiệu quả của dự án.
Các ngân hàng và tổ chức tín dụng cũng phải có biện pháp tăng tiềm lực
để sẵn sàng cho vay với số vốn lớn có tính hiệu quả cao.

pdf

39 trang

|

Chia sẻ: lylyngoc

| Lượt xem: 8530

| Lượt tải: 5

download

Bạn đang xem trước

20 trang

tài liệu Tiểu luận Thực trạng phát triển ngành du lịch ở nước ta trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

hát triển nguồn nhân
lực du lịch và giáo dục du lịch toàn dân; phối hợp đồng bộ, thường xuyên liên
ngành, địa phương ở tất cả hoạt động liên quan đến du lịch trong va ngoài nước.
Bốn là: ngành du lịch phải đi đầu làm nòng cốt trong nghiên cứu, triển
khai chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách phát triển du lịch và thể
chế hoá thành các luật lệ, biện pháp và chương trình cụ thể. Thường xuyên nghiên
cứu thông tin, kinh nghiệm phát triển du lịch thế giới, tổng kết thực tiễn kịp thời để
phát huy thế mạnh và tiềm năng to lớn về du lịch của các ngành, các địa phương.
Trang 16
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH Ở NƯỚC TA
TRONG THỜI GIAN QUA
1) Sự cần thiết phát triển du lịch ở nước ta
Trải qua hai cuộc chiến tranh đất nước ta đã bị tàn phá nặng nề, nền kinh
tế suy sụp, dân ta nghèo khổ, các nước còn e dè trong quan hệ với ta. Trước tình
hình đó nước ta cần phát triển kinh tế, khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Đảng
và nhà nước đã nhận thức được tầm quan trọng của mỗi ngành trong đó có ngành
du lịch.
Đảng và nhà nước đã xác định “du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp
quan trọng mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội
hoá cao; phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng
của nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và
phát triển kinh tế xã hội của đất nước” (Trích pháp lệnh du lịch 2/1999) và coi
“phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển
kinh tế xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”
(Trích chỉ thị 46/CTTW ban bí thư trung ương đảng khoá VII, 10/1994) và “phát
triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn” (Trích văn kiện đại hội
đảng khoá IX)
Ảnh hưởng của du lịch đến kinh tế: Du lịch đã đóng góp rất lớn vào sự
phát triển kinh tế của đất nước. Tình đến thời điểm này, hoạt động du lịch đã mang
lại doanh thu hàng tỉ USD và nộp vào ngân sách nhà nước hàng ngàn tỉ đồng.
Hàng năm các ngành cố gắng xuất khẩu hàng hoá để thu ngoại tệ về cho đất nước
và du lịch là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả nhất. Bởi du lịch là một ngành “xuất
khẩu tại chỗ” những hàng hoá công nghiệp, tiêu dùng… được trao đổi qua con
đường du lịch, các hàng hoá được xuất khẩu mà không phải chịu hàng rào thuế
quan mậu dịch quốc tế. Mặt khác, du lịch còn là ngành “xuất khẩu vô hình” hàng
hoá du lịch. Đó là cảnh quan thiên nhiên, khí hậu, giá trị của di tích lịch sử, văn
hoá…
Trang 17
Quy luật có tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế
giới hiện nay cũng như ở Việt Nam là giá trị ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ
trọng cao trong tổng sản phẩm xã hội và trong số người có việc làm. Để đi tìm hiệu
quả của đồng vốn thì du lịch là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so với nhiều
ngành kinh tế khác. Du lịch đem lại tỷ xuất lợi nhuận cao, vì vốn đầu tư vào du
lịch tương đối ít so với ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải mà khả năng
thu hồi vốn lại nhanh, kỹ thuật không phức tạp. Chính đặc điểm này rất phù hợp
với tình hình nước ta- một nước còn nghèo nàn, lạc hậu, thiếu vốn đầu tư, sự cần
thiết hiện đại hoá nền kinh tế Việt Nam điều đó có ý nghĩa to lớn. Du lịch là cầu
nói giao lưu kinh tế có quan hệ chặt chẽ với chính sách mở cửu của đảng và nhà
nước do đó phát triển du lịch là việc cần thiết đối với nước ta.
Ngoài những lợi ích về mặt kinh tế mà du lịch đem lại, du lịch còn có ý
nghĩa về mặt xã hội. Du lịch có vai trò giữ gìn, phục hồi sức khoẻ và tăng cường
sức sống cho người dân. Trong một chừng mực nào đó du lịch có tác dụng hạn chế
bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người. Mặt khác qua
những chuyến du lịch mọi người có điều kiện tiếp xúc với nhau, gần gũi nhau hơn
nhờ đó mọi người hiểu nhau hơn và làm tăng thêm tình đoàn kết trong cộng đồng.
Bên cạnh đó do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thì hàng
loạt máy móc đã được tạo ra thay thế con người trong quá trình lao động sản xuất
do đó dẫn đến một lượng người bị thất nghiệp và gây sức ép lên nền kinh tế của
đất nước. Nhưng nhờ có sự phát triển của du lịch và dịch vụ mà một lượng lớn
những người này đã có công ăn việc làm, có thu nhập ổn định. Chính du lịch đã
góp phần làm giảm gánh nặng cho nền kinh tế của dất nước, góp phần đưa nền
kinh tế của nước nhà phát triển ổn định và nhanh chóng.
Ảnh hưởng của du lịch đến văn hoá: một trong những chức năng của du
lịch là giao lưu văn hoá giữa các cộng đồng. Khi đi du lịch, du khách luôn muốn
được xâm nhập vào các hoạt động văn hoá của địa phương qua đó du khách có
thêm những hiểu biết mới. Du lịch còn góp phần cho việc phục hồi và phát triển
văn hóa dân tộc. Nhu cầu về nâng cao nhận thức văn hoá trong chuyến đi của du
khách thúc đẩy các nhà cung ứng chú ý, yểm trợ cho việc khôi phục, duy trì, các di
tích, lễ hội, sản phẩm làng nghề… Du lịch đã góp phần đưa hình ảnh đất nước ta
Trang 18
đến với bạn bè quốc tế đồng thời giúp chúng ta có cái nhìn rộng hơn bên ngoài mà
qua đó ta làm cho cuộc sống tinh thần trở nên phong phú và đầy đủ hơn.
Ảnh hưởng của du lịch đến môi trường: mục đích chủ yếu của du khách
khi đi du lịch là được tiếp xúc, đắm mình trong thiên nhiên, được cảm nhận một
cách trực giác sự hùng vĩ, trong lành, tươi mát và nên thơ của các cảnh quan thiên
nhiên. Nó tạo điều kiện cho họ hiểu biết sâu sắc hơn về tự nhiên, thấy được giá trị
của thiên nhiên đối với đời sống con người. Điều này có nghĩa là bằng thực tiễn
phong phú, du lịch sẽ góp phần rất tích cực vào sự nghiệp giáo dục môi trường,
một vấn đề toàn thế giới đang hết sức quan tâm.
Nhu cầu du lịch nghỉ ngơi tại những khu vực có nhiều cảnh quan thiên
nhiên đã kích thích việc tôn tạo, bảo vệ môi trường. Để đáp ứng nhu cầu du lịch
phải dành những khoảng đất đai có môi trường ít bị xâm phạm, xây dựng các công
viên bao quanh thành phố, thi hành các biện pháp bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn
nước, không khí nhằm tạo nên môi trường sống phù hợp với nhu cầu của du khách.
Để gia tăng thu nhập từ du khách phải có chính sách maketing, chính sách tu bổ
bảo vệ tự nhiên để điểm du lịch ngày càng hấp dẫn.
Ảnh hưởng của du lịch đến an ninh, chính trị: trước hết cần khẳng định du
lịch là chiếc cầu nối hoà bình giữa các dân tộc trên thế giới. Hoạt động du lịch giúp
cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn, hiểu hơn về giá trị văn hoá của đất nước
bạn.
Ngoài những mặt tích cực mà du lịch đem lại thì còn có những tác động
tiêu cực từ du lịch. Do đó chúng ta cần phải nhận thức rõ để có hướng phát triển
đúng đắn. Với những gì du lịch đem lại cho kinh tế, xã hôi, văn hoá, môi trường…
thì việc phát triển du lịch ở nước ta là điều rất cần thiết để phục vụ cho sự xây
dựng và phát triển đất nước trở thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
2) Tiềm năng phát triển du lịch ở nước ta
Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam Á,
vừa có biên giới lục địa, vừa có hải giới rộng lớn, là cửa ngõ đi ra Thái Bình
Dương của một số nước và của vùng Đông Nam Á. Nước ta nằm ở vành đai nhiệt
đới bắc bán cầu, đúng vào khu vực gió mùa Đông Nam Á, do đó, mang lại đặc
Trang 19
trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa Châu Á. Nhờ đó mà Việt Nam có hệ thống động
thực vật phong phú, đa dạng. Việt Nam còn có những danh thắng đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới như vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An,
cố đô Huế, thánh địa Mỹ Sơn, vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bảng ngoài ra còn có
di sản văn hoá thế giới phi vật thể là nhã nhạc Huế. Chúng ta còn thu hút du khách
nước ngoài bằng hàng loạt các điểm du lịch sinh thái kéo dài khắp ba miền tổ
quốc: Bản Gốc, Mẫu Sơn, Sa Pa, Thác Mơ, hồ Ba Bể, vườn quốc gia Ba Vì, Mai
Châu, Tam Cốc- Bích Động, Cát Tiên, khu ngập nước Văn Long, Bà Nà, Đồng
Tháp Mười, địa đạo Củ Chi, U Minh… Hiện nay, du lịch sinh thái đang được
nhiều du khách quan tâm nên đây là điều kiện tốt để du lịch Việt Nam khai thác
tiềm năng sẵn có. Mặt khác lãnh thổ nước ta kéo dài từ Bắc vào Nam tiếp giáp với
biển cũng tạo cho chúng ta những bãi biển cát mịn và đẹp như Trà Cổ, Bãi Cháy,
Đồ Sơn, Sầm Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu…
Ngoài những thắnh cảnh tươi đẹp, Việt Nam còn có rất nhiều các làng
nghề, lễ hội truyên thống. Tiềm năng phát triển du lịch làng nghề truyền thống của
nước ta rất lớn, mỗi làng nghề gắn với một vùng văn hoá, hệ thống di tích và
truyền thống riêng, với cung cách sáng tạo sản phẩm riêng của mình. Du khảo hết
các làng nghề truyền thống, du khách có thể thấy rõ bản sắc cũng như đặc trưng
của bộ mặt nông thôn Việt Nam. Hiện nay, cả nước đã có hơn 2000 làng nghề thủ
công thuộc 11 nhóm nghề chính như: cói, sơn mài, mây tre đan, gốm sứ, thêu ren,
dệt, gỗ, đá, giấy, tranh dân gian. Đi dọc Việt Nam du khách có thể thấy nhiều vùng
quê mà mật độ làng nghề truyền thống dày đặc rải từ bắc vào nam. Những cái nôi
của làng nghề là Hà Nôi, Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thừa Thiên
Huế… Thực tế, hiện nay du khách muốn đến tận làng nghề nhìn cảnh cây đa, bến
nước, sân đình, thăm các di tích của một làng nghề truyền thống Việt Nam, tìm
hiểu các vị tổ làng nghề hoặc các danh nhân văn hoá. Làng nghề truyền thống Việt
Nam chứa đựng tiềm năng dồi dào về du lịch còn bởi vì du khách muốn đến tận
nơi xem các công đoạn nghệ nhân làm ra sản phẩm và cũng muốn tận tay tham gia
làm sản phẩm theo trí tưởng tượng của riêng mình. Tìm hiểu về văn hoá và truyền
thống làng nghề là điều mà du khách trong và ngoài nước quan tâm.
Trang 20
Việt Nam còn có các tài nguyên có giá trị lịch sử, các tài nguyên có giá trị
văn hoá thu hút khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu. Với lịch sử
hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã tạo dựng được một nền văn
hoá phong phú và độc đáo. Không những vậy 54 dân tộc anh em cùng chung sống
trên một mảnh đất, lại có bao phong tục, tập quán, lễ hội khác nhau tạo nên sự đa
dạng cho sản phẩm du lịch Việt Nam.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ. Đặc biệt con
người Việt Nam thân thiện, hiếu khách đã tạo sự thoải mái cho du khách.
Chính tất cả những tiềm năng trên là một nền tảng để du lịch Việt Nam
phát triển, hội nhập với các nước trên thế giới. Nhưng vấn đề là chúng ta tận dụng
những tiềm năng đó như thế nào nó phụ thuộc vào cách làm của chúng ta.
3) Thành tựu ngành du lịch nước ta đạt được trong thời gian qua
Nhận thức được vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân và việc đánh giá đúng các tiềm năng để phát triển du lịch, Đảng
và nhà nước ta trong thời gian qua đã đưa ra những chính sách hỗ trợ cho sự phát
triển của ngành du lịch. Trong thời gian qua du lịch Việt Nam đã có những thành
tựu và những tiến bộ vững chắc.
Ngay từ những năm mới thành lập, trong điều kiện chiến tranh, cơ sở vật
chất còn thiếu thốn, đội ngũ cán bộ còn ít, trình độ nghiệp vụ hạn chế, ngành du
lịch đã có nhiều cố gắng, đáp ứng nhu cầu phục vụ các đoàn khách của đảng, nhà
nước và các đoàn khách quốc tế.
Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, phạm vi mở rộng trên toàn quốc,
tăng cường phát triển nhân lực, cơ sở vật chất kĩ thuật dần được cải thiện, đa dạng
hoá hình thức hoạt động, từng bước du lịch khẳng định được vị trí, vai trò của một
ngành kinh tế tổng hợp. Nhờ vậy mà ngành du lịch có thể nhanh chóng thích nghi
được và phát triển một cách năng động trong quá trình chuyển đổi cơ chế của thời
kỳ mới. Đảng và nhà nước đã có sự quan tâm và quyết tâm đưa ngành du lịch Việt
Nam phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn. Từ những đề xuất của ngành, ban
chỉ đạo nhà nước về du lịch được thành lập do một phó thủ tướng làm trưởng ban.
Đồng thời thủ tướng chính phủ cũng phê duyệt “chương trình hành động quốc gia
Trang 21
về du lịch” và triển khai khá hiệu quả từ năm 2000 đến nay. Một loạt các văn bản
pháp lý như: pháp lệnh du lịch, các nghị định hướng dẫn thi hành và gần đây nhất
là luật du lịch được thông qua và đưa vào thực hiện. Bên cạnh đó ngành còn tiến
hành nghiên cứu, xây dựng chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đất
nước, các vùng du lịch trọng điểm, và hơn 50 tỉnh, thành phố. Nhờ vào sự đồng bộ
về cơ chế chính sách, môi trường pháp luật đã tăng cường nguồn lực đầu tư phát
triển du lịch, cơ sở hạ tầng, nhân lực và nâng cao nhận thức xã hội đối với du lịch.
Những thành tựu của ngành du lịch trong thời gian qua đã được phản ánh
phần nào qua những con số. Số lượng khách du lịch vào Việt Nam ngày càng tăng,
doanh thu về du lịch, thu nhập xã hội từ du lịch và nộp vào ngân sách nhà nước có
mức tăng trưởng cao, không thua kém các ngành kinh tế hàng đầu đất nước. Từ
năm 1991 đến 2001, lượt khách quốc tế đã tăng từ 300 ngàn lượt người lên 2,33
triệu lượt người, tăng 7,8 lần. Khách du lịch nội địa tăng từ 1,5 triệu lượt người lên
11,7 triệu lượt người, tăng gấp 8 lần. Thu nhập xã hội từ du lịch tăng nhanh, năm
2001 đạt 20500 tỷ đồng, so với năm 1991 gấp khoảng 9,4 lần. Hoạt dộng du lịch
đã tạo 22 vạn lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp giải quyết được
phần nào nạn thất nghiệp ở nước ta. Theo số liệu mới nhất, trong sáu tháng đầu
năm 2005 ngành du lịch Việt Nam đã đón nhận hơn 1,72 triệu lượt khách du lịch
quốc tế. Ngành du lịch Việt Nam đang rất tin tưởng vào mục tiêu đón 3,2 triệu lượt
khách quốc tế trong năm nay trở thành hiện thực.
Trong 5 năm qua, với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển
cơ sở hạ tầng lên tới 2141 tỷ đồng đã góp phần không nhỏ khuyến khích các địa
phương thu hút đầu tư du lịch dựa trên lợi thế từng vùng. Nhìn chung, cơ sở hạ
tầng có bước chuyển mạnh mẽ. Hiện nay, cả nước có hơn 5900 cơ sở lưu trú với
hơn 120 nghìn phòng. Phương tiện vận chuyển như đường bộ, đường thuỷ, đường
sắt, đường không được hiện đại hoá. Nhiều khu du lịch, sân gôn, công viên chuyên
đề và cơ sở vui chơi được đưa vào hoạt động và đủ điều kiện đón hàng triệu khách
mỗi năm. Tốc độ tăng trưởng của du lịch đạt bình quân hơn 11%/năm cả về cơ sở
hạ tầng, số lượng du khách.
Bên cạnh việc sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn từ ngân sách nhà
nước, ngành du lịch còn tận dụng các nguồn vốn nước ngoài nhằm huy động thêm
Trang 22
nguồn lực cho sự phát triển của ngành. Năm 2005, nước ta đã có thêm hai dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực khách sạn với tổng số vốn đầu tư
khoảng 1,5 triệu USD, dự án bằng nguồn vốn ODA do EU tài trợ là 11,8 triệu
USD cũng là tín hiệu hứa hẹn cải thiện cơ sở hạ tầng và nâng cao năng lực của
ngành du lịch trong thời gian tới. Do nguồn vốn có hạn nên ngành du lịch ưu tiên
đầu tư phát triển các khu du lịch tổng hợp quốc gia và khu du lịch chuyên đề.
Đồng thời ngành có kế hoạch đẩy mạnh phát triển du lịch đối với các địa bàn du
lịch trọng điểm như: Hà Nội, Quảng Ninh, Nghệ An, Huế…và các tuyến du lịch
quốc gia, đầu tư phát triển bền vững một số địa điểm: Hạ Long, Nha Trang, Đà
Lạt, Hội An, Sa Pa…Việc đầu tư của ngành trong thời gian qua đã có chiều sâu, có
trọng điểm. Hệ thống tổ chức được kiện toàn một bước, đội ngũ cán bộ tăng về số
lượng và chất lượng. Công tác đào tạo và bồi dưỡng nhân lực được đổi mới về cơ
sở, trường lớp, giảng dạy, thực hành, đội ngũ giáo viên, chương trình, giáo trình và
phương pháp đào tạo cùng với việc chú trọng nghiên cứu, ứng dụng khoa học.
Nhiều đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp ngành được triển khai, tập trung vào
những vấn đề cấp thiết của ngành mang tính thực tiễn cao. Những tiến bộ trên lĩnh
vực này đã giúp đào tạo cho ngành 230 nghìn lao động trực tiếp có trình độ chuyên
môn và khoảng 500 nghìn lao động gián tiếp trên các lĩnh vực.
Đồng thời ngành du lịch không ngừng mở mang giao lưu với các nước trên
thế giới nhằm tăng tình đoàn kết, hợp tác, hữu nghị, xúc tiến thương mại… nâng
cao vị trí của nước ta trên trường quốc tế. Hiện nay, du lịch Việt Nam quan hệ bạn
hàng với hơn 1000 hãng du lịch. Trong đó có những hãng lớn của hơn 60 nước,
hiệp hội du lịch Châu Á- Thái Bình Dương. Nước ta cũng đã ký hiệp định hợp tác
du lịch với nhiều nước, chủ động tham gia hợp tác du lịch tiểu vùng, liên khu
vực…
Mặc dù những thành tựu mà ngành du lịch Việt Nam đã đạt được là đáng
kể, song nó đã thực sự tương xứng với tiềm năng du lịch của nước ta chưa? Ngành
du lịch cần phải có những bước đi, cách làm phù hợp để khắc phục những hạn chế,
để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
4) Hạn chế của ngành du lịch Việt Nam trong thời gian qua
Trang 23
Một vấn đề đặt ra làm đau đầu các nhà lãnh đạo không chỉ ở trong ngành
du lịch là hoàn thiện hệ thống pháp luật. Có lẽ đây là một rào cản lớn cho sự phát
triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành du lịch Việt Nam nói riêng.
Chúng ta chưa có một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh, thống
nhất điều chỉnh việc tổ chức, kinh doanh, trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ của các
cơ quan, tổ chức, địa phương, cá nhân tham gia kinh doanh du lịch cũng như khách
du lịch.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng quyết định đến sự
phát triển thì cho đến nay, chúng ta vẫn chưa đào tạo được đội ngũ nhân viên du
lịch (lái xe, tiếp viên, hướng dẫn viên…) có nghiệp vụ, có văn hoá, biết ngoại ngữ
đủ để đáp ứng yêu cầu của thị trường đang ngày càng tăng. Hoạt động du lịch ngày
càng đa dạng hoá về sản phẩm du lịch, loại hình du lịch và chất lượng các sản
phẩm du lịch. Điều này đòi hỏi đội ngũ lao động phải không ngừng nâng cao trình
độ nghiệp vụ. Những người làm công tác quản lý trong ngành du lịch có trình độ
không đồng đều, một số chưa qua đào tạo về quản lý doanh nghiệp du lịch. Tuy
tiềm năng du lịch rất lớn nhưng hệ thống cơ sở đào tạo du lịch còn quá ít. Điển
hình như ở Hà Nội- một trung tâm văn hoá- chính trị lớn của cả nước cũng chỉ có
vài trường đào tạo du lịch là trung học nghiệp vụ du lịch, khoa du lịch trường đại
học khoa học xã hội và nhân văn, khoa du lịch trường đại học văn hoá, khoa du
lịch viện đại học mở Hà Nội.
Trong khi nguồn nhân lực có chuyên môn, nghiệp vụ còn thiếu thì sự sắp
xếp bộ máy cán bộ không hợp lý, rườm rà gây ra lãng phí rất nhiều nhân lực. Do
đó, kiện toàn sắp xếp lại đội ngũ cán bộ là một đòi hỏi cần phải giải quyết ngay.
So với các nước trên thế giới và các nước trong khu vực như Thái Lan,
Indonesia thì chúng ta đi sau các nước này đến gần hai thập kỷ về lĩnh vực du lịch.
Đầu tư về du lịch của chính phủ tuy đang cải thiện nhưng chưa tương xứng với
tiềm năng du lịch của nước ta. Một năm, chính phủ Thái Lan bỏ ra gần 100 triệu
USD để quảng bá du lịch quốc gia với trên 20 văn phòng đại diện du lịch quốc gia
ở nước ngoài. Còn chúng ta chưa có một văn phòng đại diện nào cả. Chúng ta
thiếu vốn để có thể đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng một cách nhanh chóng. Chúng ta
thiếu xe tốt, xe mới, thiếu khách sạn vào những tháng cao điểm, chất lượng đường
Trang 24
xá thấp, liên tục xảy ra ách tắc giao thông, lề đường dành cho khách dạo bộ bị
chiếm dụng.
Mặc dù tiềm năng du lịch ở Việt Nam là rất lớn song nếu chúng ta chỉ biết
dừng lại ở việc khai thác các tiềm năng tự nhiên hoặc có sẵn thì ngành du lịch khó
có thể phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhưng đó
lại chính là thực trạng của du lịch Việt Nam trong thời gian qua. Chúng ta chưa tạo
ra được các dịch vụ du lịch đi kèm. Do đó, chúng ta chỉ giữ được khách trong một
thời gian ngắn. Điển hình như ở Hạ Long- một thắng cảnh được thế giới công nhận
cũng chỉ giữ được chân khách trong 1 hoặc 2 ngày. Chúng ta có lợi thế là giá sinh
hoạt rất rẻ nên việc Việt Nam trở thành “thiên đường mua sắm” là điều chúng ta có
thể làm được. Nhưng những sản phẩm du lịch của Việt Nam chưa đa dạng, chất
lượng chưa cao, chưa có sự quản lý hệ thống các cửa hàng phục vụ khách quốc tế.
Do đó, chúng ta chưa thu được một lượng lớn ngoại tệ từ dịch vụ này.
Hiện nay, lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam ngày càng tăng và
đây là điều đáng mừng của du lịch Việt Nam.
Song lượng khách quốc tế quay lại Việt Nam du lịch lại rất ít. Câu hỏi đặt
ra cho ngành du lịch Việt Nam là tại sao lại như vậy? Và làm thế nào để khách du
lịch quốc tế trở lại Việt Nam? Để là được điều này cần phải có sự giúp sức của các
ngành, để du lịch khắc phục được những hạn chế. Chúng ta phải xây dựng một xã
hội văn minh, lịch sự tránh tình trạng ăn xin bám lấy khách, tranh giành khách,
móc túi, lừa đảo, gây mất thiện cảm đối với du khách. Ngành du lịch Việt Nam
cũng cần phải có những biện pháp phù hợp để giải quyết vấn đề này, để nó không
trở thành vết đen của du lịch Việt Nam.
Trong khi một lượng lớn khách không quay trở lại Việt Nam lần thứ hai,
công tác quảng bá du lịch Việt Nam còn nhiều hạn chế nên chưa thực sự đưa được
hình ảnh Việt Nam đến được với bạn bè trên thế giới. Chúng ta chỉ tập trung khai
thác những thị trường cũ như khu vực Đông Á, Âu- Mỹ. Để du lịch Việt Nam phát
triển nhanh hơn nữa thì Việt Nam cần phải có một chiến dịch quảng bá có chiều
sâu, dài hơn vào thị trường khách trọng điểm. Nhưng cho đến nay những việc mà
ngành du lịch làm được chỉ đơn giản là đăng ký hội trợ, kêu gọi các doanh nghiệp
đăng ký rồi sau đó cử đoàn đi roadshow và trưng bày tại hội chợ. Nên chú trọng thị
Trang 25
trường nào thì cử tăng số lượng hội chợ và roadshow lên. Đơn cử như tại hội chợ
ITB được tổ chức thường niên tại Đức, mặc dù ngành du lịch Việt Nam tham gia
khá đều đăn nhưng lượng khách Đức đến Việt Nam trong thời gian qua cũng
chẳng tăng được là bao nhiêu, thậm chí năm 2003, lượng khách du lịch đến từ
nước này còn giảm gần 4% so với năm 2002. Nếu so sánh với các nước khác thì
chiến lược của ta từ logo, đến cách phát động lễ hội, hội chợ…còn thiếu sự sáng
tạo, chiều sâu. Trước thực trạng này chúng ta cần phải có sự học tập sáng tạo công
nghệ quảng bá của nước ngoài, sử dụng loại hình quảng bá mới…để mọi người
biết đến Việt Nam như một điểm đến an toàn, thân thiện, hấp dẫn.
Giải quyết được những hạn chế trên không chỉ là công việc của riêng
ngành du lịch mà đòi hỏi phải có sự giúp sức của các ngành, các cấp. Nó đòi hỏi
nhiều thời gian, tiền của nhưng chúng ta phải làm bởi lợi ích mà du lịch mang lại
còn lớn hơn nhiều. Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước đã quan tâm để
phát triển du lịch bền vững và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
5) Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế của ngành du lịch
Việt Nam
5.1) Nguyên nhân của những thành tựu
Trong thế kỷ XXI, tình hình thế giới có những biến đổi sâu sắc với những
bước nhảy vọt chưa từng thấy về khoa học và công nghệ. Kinh tế tri thức sẽ có vai
trò ngày càng nổi bật trong phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hoá là một xu
thế khách quan, ngày càng có nhiều nước tham gia, hoà bình, hợp tác và phát triển
vẫn là một xu thế lớn phản ánh nguyện vọng và đòi hỏi của mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc. Trong bối cảnh đó, nhu cầu du lịch tăng mạnh, du lịch thế giới phát triển
nhanh với xu thế chuyển dần sang khu vực Đông Á- Thái Bình Dương, đặc biệt là
khu vực Đông Nam Á. Đây thực sự là cơ hội tốt cho du lịch Việt Nam phát triển.
Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng và nhà nước đã tạo
điều kiện thuận lợi cho kinh tế đối ngoại, trong đó có du lịch, phát triển. Đảng và
nhà nước quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao sự nghiệp phát triển du lịch của đất
nước. Du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trang 26
Bên cạnh đó, Việt Nam là đất nước có tiềm năng lớn về du lịch, ngoài
những danh thắng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới như
vịnh Hạ Long, cố đô Huế, phố cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn, vườn quốc gia Phong
Nha- Kẻ Bảng, chúng ta còn thu hút khách du lịch nước ngoài bằng hàng loạt địa
điểm du lịch sinh thái kéo dài khắp ba miền tổ quốc với những bờ biển đẹp. Ngoài
những thắng cảnh đẹp, Việt Nam còn có rất nhiều các làng nghề với các lễ hội
mang đậm truyền thống văn hoá dân tộc.
Cùng với đó, Việt Nam ngày càng thu hút nhiều du khách nước ngoài do
giá cả sinh hoạt rẻ, do chính sách đối ngoại mở cửa của nhà nước, do kết quả của
hoạt động tuyên truyền quảng bá sản phẩm du lịch Việt Nam tới bạn bè thế giới.
Đặc biệt, nước ta có tình hình chính trị ổn định và an ninh trật tự đảm bảo nên đã
tạo được sự an tâm cho du khách khi đến với Việt Nam. Sau hàng loạt các sự kiện
quốc tế như sự kiện 11-9 ở Mỹ, vụ đánh bom ở khu du lịch Bali (Indonesia), và
hàng loạt các vụ đánh bom khủng bố ở nhiều nước trên thế giới…gây hoang mang
cho du khách nên những điểm đến an toàn là lựa chọn số một của khách du lịch.
Trong khi đó Việt Nam vẫn tiếp tục được nhiều cơ quan nghiên cứu du lịch và
thông tấn phương tây thừa nhận là “điểm du lịch an toàn và thân thiện nhất khu
vực Châu Á- Thái Bình Dương”. Đảng và nhà nước ta đã không ngừng giữ vững
an ninh, ổn định chính trị, có những chính sách đúng đắn để phát triển nền kinh tế
nói chung và ngành du lịch nói riêng.
5.2) Nguyên nhân của những tồn tại
Nguyên nhân khách quan: Việt Nam vẫn là một nước nghèo đang từ từ
khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh. Kinh tế Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn và
tụt hậu rất xa so với các nước trên thế giới. Ngành du lịch Việt Nam lúc bấy giờ
còn non kém, trong thời điểm đó du lịch thế giới đã phát triển ở một trình độ cao
về nhiều mặt. Nhiều du khách đến những nơi của các nước có nền du lịch phát
triển cao bởi ở đó nhiều nhu cầu của khách được đáp ứng. Ngành du lịch Việt
Nam- một ngành còn non trẻ lại mở ra vào lúc thế giới có nhiều biến động như
nguồn viện trợ cho Việt Nam giảm, lượng du khách từ thị trường Liên Xô cũ ít đi,
Việt Nam còn chịu sự bao vây cấm vận…Dẫu biết tiềm năng du lịch của Việt Nam
là lớn nhưng trong điều kiện một nền kinh tế chưa phát triển nên điều kiện để
Trang 27
chuyển hoá tiềm năng đó thành sản phẩm du lịch đa dạng, phong phú còn gặp
nhiều khó khăn. Nó đòi hỏi phải có thời gian để khắc phục.
Nguyên nhân chủ quan: công tác tổ chức và quản lý du lịch trong mọtt thời
gian dài không ổn định. Đội ngũ cán bộ ngành du lịch có mặt bằng kiến thức chưa
cao, vừa làm, vừa học, do đó không tránh được những sai sót. Kinh nghiệm về
quản lý, tổ chức trong du lịch kém. Cơ sở vật chất cho du lịch còn thiếu, khách sạn
đạt tiêu chuẩn quốc tế không nhiều, thiếu đồng bộ không tạo được sự thoải mái
cho du khách.
Trang 28
CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN
NGÀNH DU LỊCH NƯỚC TA
1) Mục tiêu, định hướng phát triển du lịch ở nước ta
1.1) Mục tiêu
Ngày nay, du lịch được nhiều nước coi là ngành kinh tế mũi nhọn. Ngành
du lịch đóng góp lớn vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, giải quyết được
phần nào vấn đề thất nghiệp ở các nước. Theo nhận định của tổ chức du lịch thế
giới: Viễn cảnh du lịch khả quan, mục tiêu 2010 khách du lịch quốc tế trên thế giới
đạt 1 tỷ lượt người, thu nhập xã hội du lịch đạt khoảng 900 tỷ USD, tạo ra 150
triệu chỗ làm việc trực tiếp, chủ yếu ở Châu Á- Thái Bình Dương trong đó Đông
Nam Á có vị trí quan trọng chiếm 34% lượt khách và 38% du lịch của toàn khu
vực.
Nhận thức được xu thế phát triển của ngành du lịch trong bối cảnh trong
nước và quốc tế, Đảng và nhà nước ta đã có những chủ trương chính sách phù hợp.
Ngày 11/11/1998, bộ chính trị có kết luận số 179/TB-TƯ về phát triển du lịch
trong tình hình mới. Nghị quyết đại hội IX của Đảng xác định: phát triển du lịch
thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác một cách có
hiệu quả lợi thế và điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá, lịch sử, huy
động tối đa các nguồn lực, tranh thủ sự cộng tác, hỗ trợ quốc tế, góp phần thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Từng bước đưa đất nước ta trở thành
một trung tâm du lịch tầm cỡ khu vực, phấn đấu đến năm 2010, du lịch Việt Nam
xếp vào nhóm các quốc gia du lịch phát triển trong khu vực.
Ngoài mục tiêu tổng quát nêu trên, Đảng và nhà nước đặt ra các mục tiêu
cụ thể:
Mục tiêu kinh tế: ngành du lịch sẽ tạo sự tối ưu hoá về đóng góp của
ngành vào thu nhập quốc dân, chuyển dịch cơ cấu, việc làm và cán cân thanh toán
bằng cách tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho sự phát triển của ngành du lịch.
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP của ngành du lịch bình quân thời kỳ 2001-2010
Trang 29
đạt 11-11,5%/năm, với các chỉ tiêu cụ thể: năm 2005, khách quốc tế vào Việt Nam
du lịch từ 3 đến 3,5 triệu lượt người, khách nội địa từ 15 đến 16 triệu lượt người,
thu nhập du lịch đạt trên 2 tỷ USD; năm 2010, khách quốc tế vào Việt Nam du lịch
từ 5,5 đến 6 triệu lượt người, khách nội địa từ 25 đến 26 triệu lượt người, thu nhập
du lịch đạt khoảng 4-4,5 tỷ USD.
Trong các mục tiêu thì mục tiêu kinh tế là mục tiêu cơ bản vì nó là động
lực trực tiếp, thường xuyên thúc đẩy du lịch phát triển manh mẽ.
Mục tiêu an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội: đảm bảo nền an ninh
quốc gia, an toàn xã hội vì an ninh quốc gia vốn dĩ là tiền đề để phát triển ở bất kỳ
quốc gia, dân tộc nào. Du lịch- an ninh gắn bó mật thiết tạo nên nền an ninh quốc
gia vững chắc.
Mục tiêu môi trường: môi trường là một thành tố tạo nên cảnh quan du
lịch. Do đó, Đảng và nhà nước phải có quy hoạch một cách hợp lý, phát triển du
lịch cần phải gắn liền với cảnh quan thiên nhiên nhằm khai thác, tôn tạo, bảo vệ
các di sản thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên khi phát triển du lịch.
Mục tiêu văn hoá- xã hội: xuất phát từ yêu cầu của phát triển du lịch. Mỗi
khi du khách đến một nơi du lịch, ngoài yêu cầu thưởng thức phong cảnh thiên
nhiên, họ còn có yêu cầu học tập, sinh hoạt văn hoá, nghệ thuật truyền thống của
dân tộc nơi họ du lịch. Do vậy, hoạt động du lịch càng phát triển, càng hiện đại thì
càng phải làm giàu thêm bản sắc và truyền thống văn hoá dân tộc, làm đẹp thêm
cảnh quan môi trường, ngăn chăn không cho các tiêu cực và tệ nan xã hội tràn lan
xâm nhập vào các hoạt động của đời sống xã hội.
Mục tiêu hỗ trợ phát triển: phát triển du lịch cần phải có sự hỗ trợ của các
cấp, các ngành như cung cấp thông tin, đưa ra những định hướng chiến lược cơ
bản phát triển kinh tế- xã hội…giúp cho việc lập kế hoạch du lịch, xúc tiến phát
triển, phối hợp nghiên cứu…để tạo thuận lợi cho sự phát triển của ngành từ trung
ương đến địa phương. Ngành du lịch sẽ tác động trở lại đến các ngành khác, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thị trường tiêu thụ, mở rộng giao lưu, chuyển
giao công nghệ.
1.2) Định hướng phát triển du lịch
Trang 30
Phát triển du lịch Việt Nam theo hướng tập trung phát triển du lịch văn
hoá, lịch sử, cảnh quan môi trường lịch sử truyền thống tạo sức hấp dẫn đặc thù,
giữ gìn, phát huy được bản sắc văn hoá dân tộc và nhân phẩm con người Việt
Nam. Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm du lịch, thu hút nhiều khách
quốc tế, đáp ứng nhu cầu tham quan du lịch ngày càng tăng của nhân dân, tạo việc
làm cho xã hội, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Phát triển du lịch đạt hiểu quả nhiều mặt: du lịch là ngành kinh tế mang
tính tổng hợp, có tác dụng thực hiện chính sách mở cửa, thúc đẩy sự đổi mới và
phát triển của nhiều ngành kinh tế khác, tạo công ăn việc làm, mở rộng giao lưu
văn hoá với văn hoá thế giới, tạo điều kiện tăng cường tình hữu nghị và sự hiểu
biết lẫn nhau giữa các dân tộc.
Phát triển du lịch với nhiều thành phần kinh tế tham gia, có sự quản lý
thống nhất của nhà nước. Đây là hai mặt của một vấn đề thống nhất với nhau, vừa
huy động được nhiều nguồn lực, vừa làm cho du lịch nước ta phát triển đúng
hướng, ổn định thị trường kinh doanh du lịch, tạo môi trường thuận lợi để các
thành phần kinh tế tham gia vào phát triển du lịch nhằm tận dụng được các lợi thế
có sẵn để phát triển du lịch.
Phát triển du lịch cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa. Trong những năm
gần đây, đời sống của nhân dân ta đã được cải thiện đáng kể. Do đó, ngoài nhu cầu
được thoả mãn về vật chất, họ còn có nhu cầu được thoả mãn về mặt tinh thần
trong đó có đi du lịch, tham quan, mở rộng tầm hiểu biết nên ta phải khai thác tốt
thị trường này.
Phát triển du lịch nhanh và bền vững: Phát triển du lịch nhanh để tránh
nguy cơ rơi vào tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực. Song ngành du lịch cũng
như nhiều ngành kinh tế khác đang hoạt động trong một môi trường cạnh tranh gay
gắt. Đặc biệt là khi nước ta đang chuẩn bị ra nhập WTO thì sự cạnh tranh đó sẽ
khốc liệt hơn nhiều nên phải có yêu cầu phát triển bền vững để du lịch nước ta
ngày càng đủ sức cạnh tranh với thị trường du lịch bên ngoài.
Xây dựng du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn: du lịch Việt Nam có
thể và có khả năng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn vì sự phát triển của nó dựa
Trang 31
trên nguồn tài nguyên du lịch to lớn của nước ta. Hơn nữa, quan điểm này còn dựa
vào xu hướng có tính quy luật về phát triển kinh tế trong điều kiện có sự tác động
của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ, là tỷ trọng thu nhập dịch vụ, du lịch
tăng lên nhanh chóng trong thu nhập quốc dân.
2) Các giải pháp cơ bản phát triển du lịch nước ta
2.1) Các giải pháp kinh tế
1.2.1) Giải pháp quy hoạch
Quy hoach du lịch là một hoạt động cơ bản đối với tất cả các khu vực nơi
đến du lịch, đặc biệt trong môi trường kinh doanh có nhiều thay đổi như hiện nay.
Mặc dù, một số nới đến du lịch đã thực sự phát triển mà không cần có một sự quy
hoạch nào, nhưng những nơi này cuối cùng sẽ phải chịu những hậu quả nghiêm
trọng vì đã không cân nhắc thận trọng sự ảnh hưởng của các tình huống trong
tương lai.
Trước đây, quy hoạch thường liên quan đến việc sắp xếp không gian lãnh
thổ thông qua mô hình sử dụng đất đai, kiến trúc phong cảnh và kiến trúc xây
dựng. Những năm gần đây, nó được bổ xung thêm các yếu tố kinh tế và xã hội. Vì
vâyh, quy hoạch là một hoạt động đa chiều và hướng tới một thể thống nhất trong
tương lai. Nó liên quan đến các yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội và công
nghệ; liên quan đến sự phân tích quá khứ, hiện tại, tương lai của một nơi đến du
lịch. Đồng thời, quy hoach cũng đề cập tới sự lựa chọn một chương trình hành
động trong nhiều khả năng đặt ra. Nó cũng liên quan đến việc thiết lập các mục
tiêu và mục đích cơ bản cho khu vực nơi đến để làm căn cứ cho các kế hoạch hành
động hỗ trợ khác tiếp theo.
Việc quy hoạch là rất cần thiết đối với sự phát triển của các ngành nói
chung và ngành du lịch nói riêng, nó giúp cho du lịch phát triển một cách bền
vững, khai thác tốt các tiềm năng và giảm những tác động xấu do du lịch gây ra.
Du lịch Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu nhưng nó mới
chỉ dừng lại ở việc khai thác theo hướng “ăn xổi” mà chưa phát triển sâu, chưa huy
động được mọi tiềm lực. Mặt khác do phát triển thiếu quy hoạch đồng bộ, thống
nhất nên hoạt động du lịch ở nước ta còn rời rạc, lẻ tẻ. Ta cần nghiên cứu, xây
dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đất nước, quy hoạch các vùng du lịch
Trang 32
trọng điểm. Do quy hoạch du lịch rất quan trọng nên trong quá trình lập kế hoạch
cần phải khảo sát, phân tích, cân nhắc cẩn thận các yếu tố môi trường để xác định
loại hình phát triển và vị trí thích hợp nhất. Ở nước ta những năm qua tình trạng tổ
chức du lịch tự phát ở các địa phương diễn ra đã làm ảnh hưởng rất lớn đến môi
trường du lịch, làm ô nhiễm môi trường, các di tích, danh lam bị xuống cấp… Nhà
nước cần phải đưa ra quy hoạch vùng du lịch, quy hoạch khu du lịch và quy hoạch
điểm du lịch một cách cụ thể để các địa phương có định hướng và khai thác khu
du lịch một cách hiệu quả nhất.
2.1.2) Giải pháp về sắp xếp lại hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh du
lịch
Để có thể thực hiện thành công chiến lược phát triển du lịch giai đoạn
2001-2010, cần kiện toàn bộ máy tổ chức và cơ chế quản lý tương ứng chức năng,
nhiệm vụ của một ngành kinh tế mũi nhọn và yêu cầu của sự phát triển trong xu
thế hội nhập quốc tế.
Đổi mới phương pháp quản lý, chú trọng hiệu quả nhiều mặt tạo điều kiện
thuận lơi cho hoạt động kinh doanh du lịch và khách du lịch theo pháp luật; xây
dựng và áp dụng một số chính sách nhằm nâng cao năng lực của các doanh nghiệp
du lịch, đặc biệt là năng lực tạo ra các sản phẩm du lịch có chất lượng cao, khả
năng cạnh tranh cao khi nước ta đang chuẩn bị ra nhập WTO, ban hành các quy
định để điều chỉnh hoạt động của các loại hình du lịch mới, các quan hệ phát sinh
trong quá trình hội nhập quốc tế.
Các nhiệm vụ được đặt ra:
– Kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về du lịch
– Sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, hình thành các công ty hoặc
tổng công ty mạnh, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong hoạt
động du lịch. Đa dạng hoá sở hữu tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp du lịch
để tăng trách nhiệm, năng lực cạnh tranh ở từng doanh nghiệp. Thành lập hiệp hội
du lịch Việt Nam.
Trang 33
– Gắn mô hình tổ chức đổi mới quản lý với yêu cầu bảo đảm tính đồng
bộ, hiệu quả và bảo đảm ổn định, an ninh, an toàn trong hoạt động của ngành với
nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
– Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về du lịch
– Đẩy mạnh cải cách hành chính, phân cấp và đơn giản hoá các thủ tục
liên quan đến khách du lịch và doanh nghiệp kinh doanh du lịch.
2.1.3) Giải pháp về thị trường
Đồng thời với các giải pháp phát huy nội lực, cần coi trọng mở rộng quan
hệ hợp tác quốc tế để phát triển nhanh du lịch Việt Nam, gắn thị trường du lịch
Việt Nam với thị trường du lịch khu vực và thế giới. Thông qua hoạt động hợp tác
trên tất cả các lĩnh vực với các nước, các cá nhân và các tổ chức như WTO, PATA,
ASEAN, ASEANTA, EU…để tranh thủ kinh nghiệm, vốn và nguồn khách góp
phần đưa du lịch Việt Nam nhanh chóng đuổi kịp và hội nhập với trình độ phát
triển chung của du lịch khu vực và thế giới.
Thực hiện và khai thác hiệu quả 16 hiệp định đã ký, duy trì, củng cố và
phát huy các quan hệ song phương, ký tiếp một số hiệp định mới.
Chủ động tham gia hợp tác đa phương trong khu vực và quốc tế, khai thác
tốt quyền lợi hội viên và thực hiện các nghĩa vụ của mình. Hướng dẫn và tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch, giải pháp để thực hiện các cam kết
quốc tế trong du lịch nói riêng và trong hợp tác kinh tế quốc tế nói chung, nâng cao
năng lực cạnh tranh trên thị trường, tăng thị phần trên thị trường truyền thống,
nâng dần vị thế trên thị trường mới. Khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp và các
cá nhân Việt Nam đầu tư du lịch ra nước ngoài.
Bên cạnh việc chủ động hội nhập, hợp tác quốc tế để mở rộng thị trường
cho du lịch, ta cần xúc tiến quảng bá du lịch để nâng cao hình ảnh và vị thế của du
lịch Việt Nam. Công tác quảng bá tiếp thị còn bộc lộ nhiều hạn chế, nhà nước cần
đầu tư vốn nhiều hơn, tổ chức các chiến dịch quảng bá du lịch tầm cỡ quốc gia ra
nước ngoài, mở các văn phòng đại diện du lịch quốc gia tạo thuận lợi cho người
nước ngoài tiếp cận và mở rộng hợp tác du lịch, phát triển các loại hình du lịch
mới như du lịch mạo hiểm, du lịch carnavan…để tăng cường lượng khách du lịch
dến Việt Nam.
Trang 34
Để mở rộng thị trường du lịch cần thực hiện những vấn đề sau:
– Có kế hoạch cụ thể khai thác thị trường quốc tế trọng điểm ở khu
vực Đông Á- Thái Bình Dương, Tây Âu, Bắc Mỹ bên cạnh đó khôi phục khai thác
các thị trường truyền thống các nước SNG, Đông Âu. Mặt khác cần có những
phương án kịp thời điều chỉnh định hướng thị trường khi có biến động.
– Chú trọng kích thíh du lịch nội địa
– Phát triển du lịch quốc tế ra nước ngoài của công dân Việt Nam ở
mức độ hợp lý
– Đánh giá thực trạng các sản phẩm du lịch Việt Nam
– Gắn sản phẩm với thị trường
– Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch Viêt Nam.
2.1.4) Giải pháp về nguồn lao động
Yếu tố con người tác động rất lớn đến sự phát triển của các ngành kinh tế
nói chung và ngành du lịch nói riêng. Để phát triển du lịch ta cần xây dựng được
đội ngũ cán bộ, nhân viên du lịch có trình độ và kỹ thuật nghiệp vụ, phẩm chất
vững vàng, cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành trong tiến trình
hội nhập du lịch khu vực và quốc tế
Các nhiệm vụ được đặt ra:
– Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực
– Đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hiện có
kết hợp với đào tạo mới cả ở trong lẫn ngoài nước, kết hợp đào tạo mới để đáp ứng
yêu cầu trước mắt và chuẩn bị lâu dài.
– Gắn giáo dục và đào tạo du lịch với hệ thống giáo dục và đào tạo
quốc gia và chú trọng giáo dục du lịch toàn dân.
Thực hiện đầy đủ và nghiêm túc chính sách cán bộ từ quy hoạch, tuyển
dụng, sắp xếp, sử dụng và quản lý đến đãi ngộ…chú trọng từng bước trẻ hoá đội
ngũ cán bộ, kết hợp ưu tiên sử dụng cán bộ có kiến thức, trình độ tay nghề, ý thức
chính trị và kinh nghiệm cao, đảm bảo tính kế thừa. Đặc biệt chú trọng đào tạo, sử
dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, chuyên gia và nghệ nhân
hoạt động trong lĩnh vực du lịch.
2.1.5) Giải pháp về khoa học công nghệ
Trang 35
Nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ là giải pháp quan
trọng có ý nghĩa chiến lược đối với du lịch, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi
hàm lượng khoa học và công nghệ trong mỗi sản phẩm xã hội ngày càng cao, nước
ta đang bước vào phát triển nền kinh tế tri thức. Các sản phẩm nghiên cứu khoa
học sé là cơ sở cho công tác quy hoạch phát triển ngành du lịch, hoạch định các
chiến lược thị trường, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm, cho việc đề
xuất các cơ chế chính sách phù hợp và cho công tác quản lý. Việc nâng cao ứng
dụng thành tựu mới của công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng không chỉ đối
với công tác quản lý mà còn đối với các hoạt động kinh doanh du lịch, tuyên
truyền quảng bá du lịch. Do vậy, ta cần đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học
và công nghệ trong du lịch.
2.1.6) Giải pháp về môi trường
Môi trường không chỉ tác động đến du lịch mà nó ảnh hưởng trực tiếp đến
cuộc sống của con người. Trước tình trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay,
Đảng và nhà nước đã đưa ra những biện pháp để tuyên truyền và kêu gọi người
dân bảo vệ môi trường- môi trường sống của chúng ta, và đưa ra những kế hoạch,
chương trình hành động cụ thể. Nhà nước cũng đã có kế hoạch phát triển du lịch
để vừa khai thác được tài nguyên thiên nhiên, vừa bảo vệ được môi trường.
Nhiệm vụ được đặt ra:
– Tăng cương hiệu lực quản lý nhà nước, sử dụng hợp lý và hiệu quả
nguồn tài nguyên, môi trường du lịch, đảm bảo phát triển bền vững của du lịch
Việt Nam.
– Đánh giá toàn diện tiềm năng, tài nguyên và môi trường du lịch (cả
tự nhiên và xây dựng) đặc biệt là ở các khu vực trọng điểm phát triển du lịch, ở các
vùng sâu, vùng xa.
– Xây dựng hệ thống quản lý tài nguyên và môi trường du lịch.
2.2) Giải pháp tài chính
2.2.1) Giải pháp về đầu tư
Đầu tư du lịch là đầu tư phát triển, nhằm tăng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
một ngành kinh tế mũi nhọn, vì vậy cần tạo ra chuyển biến tích cực trong công tác
đầu tư và phát triển du lịch với những chính sách ưu đãi, hướng đầu tư vào những
Trang 36
điểm còn hạn chế của du lịch Việt Nam và hỗ trợ các hướng phát triển ưu tiên
trong việc xây dựng các khu, tuyến điểm du lịch trong việc tôn tạo cảnh quan, môi
trường, di tích lịch sử, văn hoá… Đồng thời đầu tư để nâng cấp hệ thống cơ sở vật
chất tạo sự thuận lợi trong đi lại và nghỉ ngơi cho du khách khắc phục tình trạng
thiếu xe tốt, thiếu những khách sạn đạt tiêu chuẩn…
– Đảng và nhà nước cần tập trung đánh giá đúng thực trạng công tác
đầu tư du lịch để từ đó có sự điều chỉnh trong đầu tư, tránh đầu tư dàn trải, không
hợp lý.
– Chú trọng ưu tiên xúc tiến đầu tư phát triển các khu du lịch tổng hợp
có ý nghĩa quốc gia và quốc tế, các khu, điểm du lịch sinh thái, du lịch văn hoá.
– Đầu tư hợp lý, nâng cấp và phát triển các điểm tham quan du lịch, cơ
sở vật chất kỹ thuật của ngành, nâng cao chất lượng và tạo các sản phẩm du lịch
mới, đầu tư cho công tác xúc tiến quảng bá du lịch, xây dựng hệ thống các trường
đào tạo nghề du lịch, tăng cường đội ngũ cán bộ nghiên cứu, cán bộ giảng dạy, cán
bộ xúc tiến quảng bá du lịch…
– Ưu tiên đầu tư đối với các địa bàn trọng điểm là Hà Nội và phụ cận,
Hải Phòng, Quảng Ninh, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lat, Vũng Tàu, Côn Đảo,
thành phố Hồ Chí Minh và phụ cận…với một số dự án cụ thể cho 4 khu du lịch
tổng hợp và 16 khu du lịch chuyên đề.
– Giai đoạn trước mắt, trong bối cảnh đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa
có xu hướng tăng, cần dựa vào đầu tư trong nước, tăng đầu tư cho du lịch từ ngân
sách nhà nước.
– Phối hợp với các bộ, ngành chức năng và địa phương liên quan trong
việc đầu tư bảo vệ, tôn tạo các di tích, cảnh quan môi trường, khôi phục và phát
triển các lễ hội, hoạt động văn hoá dân gian, các làng nghề phục vụ phát triển du
lịch.
2.2.2) Giải pháp về tín dụng
Du lịch Việt Nam còn rất nhiều hạn chế, để khác phục và phát triển đỏi hỏi
cần một số vốn lớn. Nhà nước cần đưa ra các ưu đãi trong tín dụng để các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch có điều kiện vay vốn với lãi suất thấp. Đồng thời cải
tiến các thủ tục vay trả tạo thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư phát triển. Mặt khác
Trang 37
với sự tham gia của tín dụng thông qua dịch vu thanh toán không dùng tiền mặt đã
làm giảm chi phí lưu thông và an toàn trong thanh toán.
Đối với các dự án đầu tư trọng điểm, xây dựng khu điểm du lịch, khu giải
trí… Ngân hàng và các tổ chức tín dụng cần có sự ưu đãi trong lãi suất để khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tâng phục vụ du lịch. Đồng
thời các ngân hàng và tổ chức tín dụng nâng cao khả năng thẩm định dự án đầu tư
để có thể đưa ra quyết định đầu tư phát triển du lịch một cách đúng đắn có hiệu
quả, và tránh tình trạng cho vay cứng nhắc chỉ dựa vào tái sản thế chấp mà không
căn cứ vào tính hiệu quả của dự án.
Các ngân hàng và tổ chức tín dụng cũng phải có biện pháp tăng tiềm lực
để sẵn sàng cho vay với số vốn lớn có tính hiệu quả cao.
2.2.3) Giải pháp về thuế
Nhà nước cần có những ưu tiên thuế nhập khẩu với thuế suất bằng thuế
suất nhập tư liệu sản xuất đối với trang thiết bị khách sạn, cơ sở vui chơi giải trí,
phương tiện vận chuyển khách du lịch, vật tư phục vụ du lịch mà trong nước chưa
sản xuất được hoặc không đáp ứng được yêu cầu hiện đại hoá cơ sở du lịch theo
nhu cầu du khách, ưu tiên, miễn giảm, cho chậm nộp thuế, giảm tiền thuê dất, lãi
suất ưu tiên vốn vay đầu tư đối với các dự án ưu tiên và tại các vùng trọng điểm
phát triển du lịch, khu du lịch quốc gia, có chế độ hợp lý về thuế, về giá điện, nước
trong kinh doanh khách sạn, rà soát điều chỉnh phương pháp tính thuế, các loại phí,
lệ phí, các hình thức vé liên quan đến du lịch, áp dụng thống nhất chính sách một
giá trong cả nước. Hoạt động du lịch là hoạt động xuất khẩu tại chỗ, do đó cho
phép kinh doanh du lịch quốc tế được hưởng các chế độ ưu đãi khuyến khích xuất
khẩu.
2.3) Giải Pháp điều kiện
Pháp lệnh du lịch ra đời năm 1999 đã mở đường cho các doanh nghiệp
tham gia khai thác du lịch. Sau 5 năm thực hiện đã tạo điều kiện, cơ sở để khai
thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh về du lịch của đất nước. Tuy nhiên, cần có một
văn bản về luật du lịch thống nhất quy định tõ ràng những yêu cầu đối với các đơn
vị tham gia trong ngành du lịch cùng với các nghị định về khu, tuyến, điểm du lịch
để các thành phần kinh tế có thể bình đẳng tham gia kinh doanh du lịch. Do đó
Trang 38
việc sửa đổi và bổ xung luật du lịch phải luôn được tiến hành để tạo được mặt bằng
pháp lý đầy đủ giúp việc phát triển của du lịch được thuận lợi.
Tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục hành chính tránh tình trạng mất nhiều
thời gian gây khó khăn cho du khách. Đặc biệt cần đơn giản hoá thủ tục xuất nhập
cảnh, quá cảnh đối với người và hành lý của khách du lịch phù hợp khả năng quản
lý của nước ta và thông lệ quốc tế, cải tiến quy trình, tăng cường trang thiết bị hiện
đại tại các cửa khẩu quốc tế trong việc kiểm tra người và hành lý, sửa đổi, bổ xung
quy định về đồ giả cổ, đồ thủ công mỹ nghệ dân gian; mở thêm các dịch vụ thuận
tiện cho khách du lịch như: đổi tiền, thu trực tiếp ngoại tệ, quầy thông tin du lịch…
Nghiên cứu và xúc tiến miễn thị thực với các nước ASEAN và một số nước là thị
trường trọng điểm khác có nhiều khách vào Việt Nam du lịch. Nghiên cứu áp dụng
visa điện tử trong xuât, nhập cảnh, áp dụng các hình thức thanh toán hiện đại.
Việc sửa đổi và bổ sung chính sách là việc khó khăn song để phát triển và
hội nhập chúng ta cần làm để có một hành lang pháp lý thông thoáng nhưng vẫn
phải đảm bảo việc giữ gìn ổn đinh an ninh chính trị, phát triển bền vững về mọi
mặt.
Trang 39
KẾT LUẬN
Như vậy những nội dung đã nghiên cứu ở trên cho phép chúng ta kết luận
rằng định hướng “phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”
của nước ta là hoàn toàn đúng. Bởi những lợi ích mà du lịch mang lại về mặt kinh
tế, xã hội, văn hoá, môi trường…là không thể phủ nhận. Bên cạnh những thành tựu
mà ngành du lịch đã đạt được trong thời gian qua thì du lịch Việt Nam vẫn còn
những hạn chế về nhiều mặt. Song với nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí, đặc
điểm, xu hướng phát triển của du lịch thì Đảng và nhà nước không ngừng đưa ra
những chính sách để khắc phục những hạn chế. Phát triển du lịch sẽ kéo theo sự
phát triển của các ngành khác và ngược lại. Nhờ đó nền kinh tế nước ta mới có thể
phát triển nhanh chóng, đủ sức hội nhập với khu vực và thế giới đưa đất nước trở
thành một nước công nghiệp vao năm 2020 và trở thành một nước có ngành du
lịch phát triển hàng đầu khu vực.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphat_trien_nghanh_du_lich_4659.pdf