Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam
Đánh giá post
Chia sẻ đề tài Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam, đến các bạn sinh viên tham khảo. Và còn rất nhiều đề tài tiểu luận khác được Dịch vụ viết luận văn cập nhập hàng ngày đến các bạn sinh viên đang làm tiểu luận triết học về đề tài Tiểu Luận:Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam, nếu như các bạn muốn tham khảo nhiều bài viết hơn nữa thì tham khảo tại trang website của Dịch vụ hỗ trợ viết luận văn nhé.
Ngoài ra, các bạn có gặp khó khăn trong việc làm bài tiểu luận môn học, hay tiểu luận tốt nghiệp thì liên hệ với Dịch vụ viết luận văn để được hỗ trợ làm bài. Hoặc các bạn có thể tham khảo dịch vụ viết thuê tiểu luận tại đây nhé.
LỜI MỞ ĐẦU (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Trong xu thế hội nhập toàn cầu về kinh tế như ngày nay, chúng ta thấy rằng trong bất kì lĩnh vực nào cũng đều có rất nhiều doanh nghiệp cùng tham gia sản xuất kinh doanh. Trong đó có rất nhiều doanh nghiệp có nguồn lực dồi dào và phong phú, đã nổi tiếng từ lâu trên toàn cầu, trong khi đó các doanh nghiệp của Việt Nam đa phần là tiềm lực yếu, thời gian tham gia thương trường chưa lâu, nên để có thể cạnh tranh được với các đối thủ trên thì các doanh nghiệp của Việt Nam phải có một đặc điểm nổi bật làm cho người tiêu dùng luôn nhớ đến doanh nghiệp dù họ chưa có nhu cầu về sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp. Khi họ có nhu cầu thì ngay lập tức họ nghĩ đến doanh nghiệp, thì đặc điểm đó chính là văn hóa doanh nghiệp.
Một trong các bộ phận cấu thành nên văn hóa doanh nghiệp đó là đạo đức kinh doanh. Để trở thành doanh nghiệp mà người dân luôn nhớ đến thì đây là một bộ phận không thể thiếu mà các doanh nghiệp cần phải xây dựng cho riêng mình.
Khi nhắc đến khái niệm “đạo đức kinh doanh”, người ta thường cho rằng đó là một yếu tố rất trừu tượng hoặc không thực tế. Bản thân những người hoạt động kinh doanh cũng không hiểu rõ khái niệm này và không hiểu hết vai trò của yếu tố đạo đức trong kinh doanh. Họ chỉ coi đó là yếu tố “vị nhân” (dùng làm người) chứ không “vị lợi” (không sinh lợi). (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Trong khi đó, đạo đức kinh doanh lại có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Từ thực tế, các nhà kinh tế đã chứng minh rằng lợi nhuận doanh nghiệp gắn liền với đạo đức, và mức độ tăng lợi nhuận gắn với mức độ tăng đạo đức. Vì vậy khi không hiểu được vai trò của đạo đức kinh doanh, không có ý thức xây dựng đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp, các doanh nghiệp sẽ rất khó đi tới con đường thành công cao nhất. Hiểu rõ khái niệm, vai trò và cách thức xây dựng đạo đức kinh doanh là vô cùng quan trọng với các doanh nghiệp
Vậy các doanh nghiệp phải xây dựng đạo đức kinh doanh như thế nào? Có phải doanh nghiệp chỉ cần làm những gì mà pháp luật xã hội không cấm không? Và các doanh nghiệp ở Việt Nam đang xây dựng đạo đức kinh doanh cho doanh nghiệp mình ra sao?… Để trả lời những câu hỏi đó chúng ta cùng nhau tìm hiểu về “Đạo đức kinh doanh ở các doanh nghiệp hiện nay”.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
1.1. Khái niệm đạo đức kinh doanh (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Nghiên cứu về đạo đức là một truyền thống lâu đời trong xã hội loài người, bắt nguồn từ những niềm tin về tôn giáo, văn hóa và tư tưởng triết học. Đạo đức liên quan tới những cam kết về luân lý, trách nhiệm và công bằng xã hội. Đạo đức trong tiếng Anh là ethics, từ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp ethiko và ethos, nghĩa là phong tục hoặc tập quán. Như Aristoteles đã nói, khái niệm trên bao gồm ý tưởng cả về tính chất và cách áp dụng. Vì vậy, đạo đức phản ánh tính cách của cá nhân và trong thời đại ngày nay thì có thể nói lên cả tính chất của một doanh nghiệp, vì doanh nghiệp chính là tập hợp của các cá nhân.
Đạo đức kinh doanh là một khái niệm không cũ mà cũng không mới. Với tư cách là một khía cạnh luân lý trong hoạt động thương mại, đạo đức kinh doanh đã lâu đời như chính thương mại vậy. Trong bộ luật Hammurabi từ khoảng 1700 TCN, đã có quy định về giá cả, thuế quan, cách thức hoạt động thương mại và cả hình phạt hà khắc cho những kẻ không tuân thủ. Đó có thể được coi là bằng chứng cho sự nỗ lực đầu tiên của xã hội loài người để phân định ranh giới đạo đức cho các hoạt động kinh doanh. Trong tác phẩm “Politics” (ra đời vào khoảng 300 TCN), Aristoteles đã chỉ ra rõ rang những mối quan hệ thương mại khi bàn về quản lý gia đình. Giáo lý của cả đạo Do Thái và Thiên chúa giáo, ví dụ như trong Talmud (năm 200 sau Công nguyên) và Mười điều răn (Exodus 20:2 – 17; Deuteronomy 5:6 – 21), đều đã đưa ra những quy tắc đạo đức được áp dụng trong hoạt động thương mại. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Tuy nhiên, với tư cách là một khái niệm mang tính hàn lâm, đạo đức kinh doanh mới chỉ tồn tại được khoảng bốn chục năm trở lại đây. Nhà nghiên cứu đạo đức kinh doanh nổi tiếng Norman Bowie là người đầu tiên đã đưa ra khái niệm này trong một Hội nghị Khoa học vào năm 1974. Kể từ đó, đạo đức kinh doanh đã trở thành một chủ đề phổ biến trong các cuộc tranh luận của các lãnh đạo trong giới kinh doanh, người lao động, các tổ chức, người tiêu dung cũng như các giáo sư đại học ở Mỹ, và từ đó lan ra toàn thế giới. Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà nghiên cứu, các tác giả và diễn giả đều có chung quan điểm về đạo đức kinh doanh. Trước hết, giữa kinh doanh và đạo đức luôn có sự mâu thuẫn. Một mặt, xã hội luôn mong muốn các công ty tạo ra nhiều việc làm lương cao, nhưng mặt khác, những công ty này lại mong muốn giảm bớt chi phí và nâng cao năng suất lao động. Người tiêu dùng luôn mong muốn mua hàng với giá thấp nhất còn các cơ sở thương mại lại muốn có lãi suất cao nhất. Xã hội mong muốn giảm ô nhiễm môi trường, còn các công ty còn lại muốn giảm tối đa chi phí phát sinh khi tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất của họ. Chính từ đó đã nảy sinh xung đột không thể tránh khỏi trong quan niệm về đạo đức kinh doanh, do khác biệt về lợi ích của công ty với lợi ích của người lao động, người tiêu dùng và toàn thể xã hội. Vì tất cả những điều đối lập nói trên là tất yếu nên các nhà quản lý buộc phải làm sao để cân bằng lợi ích của công ty với lợi ích của các cổ đông (shareholders) và những người có quyền lợi liên quan, bao gồm nhân viên, khách hàng và toàn thể cộng đồng.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều khái niệm về đạo đức kinh doanh, trong đó khái niệm sau có thể được coi là đơn giản nhất: Đạo đức kinh doanh là những nguyên tắc được chấp nhận để phân định đúng sai, nhằm điều chỉnh hành vi của các nhà kinh doanh. Định nghĩa này khá chung chung, vì thế cũng bỏ qua nhiều nhân tố quan trọng, ví dụ như: những loại hành vi nào những nguyên tắc đạo đức có thể điều chỉnh; Hay những ai có thể được coi là “nhà kinh doanh” và hành vi của họ cần được điều chỉnh như thế nào? (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Ý thức được sự phức tạp của vấn đề, giáo sư Phillip V.Lewis từ trường Đại học Abilene Christian, Hoa Kỳ đã tiến hành điều tra và thu thập được 185 định nghĩa được đưa ra trong các sách giáo khoa và các bài nghiên cứu từ năm 1961 đến 1981 để tìm ra “đạo đức kinh doanh” được định nghĩa ra sao trong các tài liệu nghiên cứu và trong ý thức của các nhà kinh doanh. Sau khi tìm ra những điểm chung của các khái niệm trên, ông tổng hợp lại và đưa ra khái niệm về đạo đức kinh doanh như sau:
“Đạo đức kinh doanh là tất cả những nguyên tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc luật lệ để cung cấp chỉ dẫn về hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung thực (của một tổ chức) trong những trường hợp nhất định”.
1.2. Các nguyên tắc và chuẩn mực của đạo đức kinh doanh
Hoạt động kinh doanh luôn gắn liền với lợi ích kinh tế, nền đạo đức kinh doanh cũng có những đặc trưng riêng của nó. Chẳng hạn, tính thực dụng, coi trọng hiệu quả kinh tế luôn là yêu cầu hàng đầu đặt ra đối với giới kinh doanh, thì đối với người khác đôi khi lại là những biểu hiện không tốt. Khi đánh giá đạo đức kinh doanh, người ta thường dựa vào các nguyên tắc và chuẩn mực về:
Tính trung thực
Dùng các thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm lời. Giữ lời hứa, giữ chữ tín trong kinh doanh, nhất quán trong nói và làm. Trung thực trong chấp hành luật pháp của nhà nước, không làm ăn phi pháp như trốn thuế, lậu thuế, không sản xuất và buôn bán những mặt hàng quốc cấm. thực hiện những dịch vụ có hại cho thuần phong mỹ tục, trung thực trong giao tiếp với bạn hàng (giao dịch, đàm phán, kí kết) và người tiêu dùng: không làm hàng giả, khuyến mại giả, quảng cáo sai sự thật, sử dụng trái phép những nhãn hiệu nổi tiếng, vi phạm bản quyền, phá giá theo lối ăn cướp, trung thực ngay với bản thân, không hối lộ, tham ô…
Tôn trọng con người
Với những người cộng sự và dưới quyền: tôn trọng phẩm giá, quyền lợi chính đáng, tôn trọng hạnh phúc, tôn trọng tiềm năng phát triển của nhân viên, quan tâm đúng mức, tôn trong quyền tự do và các quyền hạn hợp pháp khác. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Đối với khách hàng: tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng.
Đối với đối thủ cạnh tranh: tôn trọng lợi ích của đối thủ.
Trách nhiệm với cộng đồng, xã hội
Luôn gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của xã hội.
Tích cực góp phần giải quyết những vấn đề chung của xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
1.3. Sự cần thiết của đạo đức kinh doanh (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Đạo đức kinh doanh là rất cần thiết trong hoạt động kinh tế xã hội ngày nay:
– Các doanh nhân càng ý thức rõ ràng về phạm trù đạo đức cơ bản, phổ biến trong truyền thống luân lý tốt đẹp của dân tộc ta từ xưa như: sự phân biệt thiện và ác, lương tâm, nghĩa vụ, nhân đạo…
– Các doanh nhân còn cần tiếp thu đạo đức phát sinh trong xã hội mới nước ta, các chuẩn mực đạo đức mới để áp dụng vào kinh doanh như: tính trung thực, tính tập thể,…
– Các chuẩn mực đạo đức kinh doanh là cơ sở tình cảm và trí tuệ cụ thể định hướng trong các hoạch định của tổ chức kinh doanh để đảm bảo được sự phát triển kinh tế xã hội cho doanh nghiệp của minh.
1.4. Vai trò của đạo đức kinh doanh đối với doanh nghiệp
Đạo đức kinh doanh góp phần điều chỉnh hành vi của chủ thể kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh bổ sung cà kết hợp với pháp luật điều chỉnh các hành vi kinh doanh theo khuôn khổ pháp luật và quỹ đạo của các chuẩn mực đạo đức xã hội. Không một pháp luật nào, dù hoàn thiện đến đâu chăng nữa cũng có thể là chuẩn mực cho mọi hành vi của đạo đức kinh doanh. Nó không thể thay thế vai trò của đạo đức kinh doanh trong việc khuyến khích moi người làm việc thiện, tác động vào lương tâm của doanh nhân. Bởi vì phạm vi ảnh hưởng của đạo đức rộng hơn pháp luật, nó bao quát mọi lĩnh vực của thế giới tinh thần, trong khi pháp luật chỉ điều chỉnh những hành vi liên quan đến chế độ nhà nước, chế độ xã hội… (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Mặt khác, pháp luật càng đầy đủ chặt chẽ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề cao, càng hạn chế được sự kiếm lợi phi pháp, tham nhũng, buôn lậu… khi bị phát hiện sẽ bị pháp luật điều chỉnh, lúc này “hiện tượng kiện tụng buộc người ta phải cư xử có đạo đức”.
Mức độ bổ sung đạo đức và pháp luật được khái quát qua các “góc vuông” xác định tính chất đạo đức và pháp lý của hành vi. Sự tồn vong của doanh nghiệp không chỉ do chất lượng của bản thân sản phẩm – dịch vụ cung ứng mà còn chủ yếu do phong cách kinh doanh của doanh nghiệp. Hành vi kinh doanh thể hiện tư cách của doanh nghiệp, và chính tư cách ấy tác động trực tiếp đến sự thành bại của tổ chức. Đạo đức kinh doanh, trong chiều hướng ấy, trở thành một nhân tố chiến lược trong việc phát triển doanh nghiệp. Chẳng phải vô cớ mà khoảng 15 năm nay một ngạn ngữ ấn độ được lưu truyền trong giới doanh nghiệp ở các nước phát triển: “gieo tư tưởng gặt hành vi, gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói quen gặt tư cách, gieo tư cách gặt số phận”.
Đạo đức kinh doanh góp phần vào chất lượng của doanh nghiệp.
Phần thưởng cho một công ty có quan tâm đến đạo đức là được các nhân viên, khách hàng và công luận công nhận là có đạo đức. Phần thưởng cho trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm xã hội trong các quyết định kinh doanh bao gồm hiệu quả trong các hoạt động hàng ngày tăng cao, sự tận tâm của các nhân viên, chất lượng sản phẩm được cải thiện, đưa ra quyết định đúng đắn hơn. Các tổ chức phát triển được một môi trường trung thực và công bằng sẽ gây dựng được nguồn lực đáng quý có thể mở rộng cánh cửa dẫn đến thành công.
Các tổ chức được xem là có đạo đức thường có nền tảng là các khách hàng trung thành cũng như đội ngũ nhân viên vững mạnh, bởi luôn tin tưởng và phụ thuộc lẫn nhau trong mối quan hệ. Nếu các nhân viên hài lòng thì khách hàng sẽ hài lòng; và nếu khách hàng hài lòng thì các nhà đầu tư sẽ hài lòng. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Các khách hàng có xu hướng thích mua hàng của các công ty liêm chính hơn. Đặc biệt là khi giá cả của công ty đó cũng bằng với giá cả của các công ty đối thủ. Khi các nhân viên cho rằng tổ chức của mình có một môi trường đạo đức, họ sẽ tận tâm hơn và hài lòng với công việc của mình hơn. Các công ty cung ứng thường muốn làm ăn lâu dài với công ty mà họ tin tưởng để qua hợp tác họ có thể xóa bỏ được sự không hiệu quả, các chi phí và những nguy cơ để có thể làm hài lòng khách hàng. Các nhà đầu tư cũng rất quan tâm đến vấn đề đạo đức, trách nhiệm xã hội và uy tín của các công ty mà họ đầu tư và các công ty quản lý tài sản có thể giúp các nhà đầu tư mua cổ phiếu của các công ty có đạo đức. Các nhà đầu tư nhận ra rằng, một môi trường đạo đức là nền tảng cho sự hiệu quả, năng suất và lợi nhuận. Mặt khác, các nhà đầu tư cũng biết rằng các hình phạt hay công luận tiêu cực cũng có thể làm giảm giá cổ phiểu, giảm sự trung thành của khách hàng và đe dọa hình ảnh lâu dài của công ty. Các vấn đề pháp lý và công luận tiêu cực có những tác động rất xấu tới sự thành công của bất cứ một công ty nào. Sự lãnh đạo cũng có thể mang lại các giá trị tổ chức và mạng lưới xã hội ủng hộ các hành vi đạo đức. Các nhà lãnh đạo nhận thức được bản chất của mối quan hệ trong kinh doanh, những vấn đề và mâu thuẫn tiềm ẩn, tìm ra biện pháp quản lý khắc phục những trở ngại có thể dẫn đến bất đồng, tạo dựng bầu không khí làm việc thuận lợi cho mọi người hòa đồng, tìm ra được một hướng chung tạo ra sức mạnh tổng hợp của sự đồng thuận, đóng góp cho sự phát triển của tổ chức.
Sự lãnh đạo chú trọng vào việc xây dựng các giá trị đạo đức tổ chức vững mạnh cho các nhân viên sẽ tạo ra sự đồng thuận về chuẩn tắc đạo đức và đặc điểm của những mối quan hệ chung. Các lãnh đạo ở địa vị có trong tổ chức đóng một vai trò chủ chốt trong việc truyền bá các tiêu chuẩn đạo đức, các chuẩn tắc và quy định đạo đức nghề nghiệp. Sự cần thiết có sự lãnh đạo có đạo đức để cung cấp cơ cấu cho các giá trị của tổ chức và những ngăn cản đối với các hành vi vô đạo đức đã được làm rõ trong nghiên cứu nước.
Các nhà lãnh đạo có thể cung cấp cơ cấu này bằng cách thiết lập các chương trình đạo đức chính thức và không chính thức, cũng như các hướng dẫn khác, giúp các nhân viên phải lưu tâm đến khía cạnh đạo đức trong quá trình đưa ra quyết định của mình. Nhận thức của các nhân viên về công ty của mình là có một môi trường đạo đức sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp trong hoạt động của tổ chức. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Xét về khía cạnh năng suất và làm việc theo nhóm, các nhân viên trong các phòng ban khác nhau cũng như giữa các phòng ban cần thiết có chung một cái nhìn về sự tin tưởng. Mức độ tin tưởng cao hơn có ảnh hưởng lớn nhất trong các mối quan hệ trong nội bộ các phòng ban hay các nhóm làm việc. Sự tin tưởng cũng là một nhân tố quan trọng trong các mối quan hệ giữa các phòng ban trong tổ chức. Bởi vậy, các chương trình tạo ra một môi trường lao động có lòng tin sẽ làm cho các nhân viên sẵn sàng hành động theo các quyết định và hành động của các đồng nghiệp.
Trong một môi trường làm việc như thế này, các nhân viên có thể mong muốn được các đồng nghiệp cà cấp trên đối xử với mình với một sự tôn trọng và quan tâm sâu sắc. Các mối quan hệ có lòng tin trong một tổ chức giữa các giám đốc và cấp dưới của họ và ban quản lý cấp cao góp phần vào hiệu quả của quá trình đưa ra quyết định.
Hầu hết các công ty đáng ngưỡng mộ nhất trên thế giới đều chú trọng vào phương pháp làm việc theo nhóm, quan tâm nhiều đến khách hàng, đề cao việc đối xử công bằng với nhân viên, và thưởng cho các thành tích tốt.
v Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự cam kết và tận tâm của nhân viên.
Sự tận tâm của nhân viên xuất phát từ việc các nhân viên tin rằng tương lai của họ gắn liền với tương lai của doanh nghiệp và chính vì thế họ sẵn sàng hy sinh cá nhân vì tổ chức của mình. Doanh nghiệp càng quan tâm đén nhân viên bao nhiêu thì các nhân viên càng tận tâm với doanh nghiệp bấy nhiêu. Các vấn đề có ảnh hưởng đến sự phát triển của một môi trường đạo đức cho nhân viên bao gồm: một môi trường lao động an toàn, thù lao thích đáng, và thực hiện đầy đủ các trách nhiệm được ghi trong hợp đồng với tất cả các nhân viên. Các chương trình cải thiện môi trường đạo đức có thể là chương trình “gia đình và công việc” hoặc chia bán cổ phần cho nhân viên. Các hoạt động từ thiện hoặc trợ giúp cộng đồng không chỉ tạo ra suy nghĩ tích cực của chính nhân viên về bản thân họ và doanh nghiệp mà còn tạo ra sự trung thành của nhân viên đối với doanh nghiệp. Sự cam kết làm các điều thiện và tôn trọng nhân viên thường tăng sự trung thành của nhân viên đối với tổ chức và sự ủng hộ của họ đối với các mục tiêu của tổ chức. Các nhân viên sẽ dành hầu hết thời gian của họ tại nơi làm việc chứ không chạy ì “chỉ làm cho xong việc mà không có nhiệt huyết hoăc làm việc “qua ngày đoạn tháng”, không tận tâm đối với những mục tiêu đề ra của tổ chức bởi vì họ cảm thấy mình không được đối xử công bằng. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Môi trường đạo đức của tổ chức rất quan trọng đối với các nhân viên. Đa số nhân viên tin rằng: hình ảnh của một công ty đối với cộng đồng là vô cùng quan trọng, các nhân viên thấy công ty của mình tham gia tích cực cào các công tác cộng đồng sẽ cảm thấy trung thành hơn với cấp trên và cảm thấy tích cực về bản thân họ. Khi các nhân viên cảm thấy môi trường đạo đức trong tổ chức có tiến bộ, họ sẽ tận tâm hơn để đạt được các tiêu chuẩn đạo đức cao trong hoạt động hằng ngày. Các nhân viên sẵn lòng thảo luận các vấn đề đạo đức và ủng hộ các ý kiến nâng cao chất lượng trong công ty nếu công ty đó cam kết sẽ thực hiện các quy định đạo đức. Thực chất, những người được làm việc trong môi trường đạo đức tin rằng họ sẽ phải tôn trọng tất cả các đối tác kinh doanh của mình, không kể những đối tác ấy ở bên trong hay bên ngoài công ty. Họ cần phải cung cấp những giá trị tốt nhất có thể cho tất cả các khách hàng và các cổ đông.
Cam kết của nhân viên đối với chất lượng của công ty có tác động tích cực đến vị thế cạnh tranh của công ty nên một môi trường làm việc có đạo đức có tác dụng tích cực đến các điểm mấu chốt về tài chính. Bởi chất lượng những dịch vụ khách hàng tác động đến sự hài lòng của khách hàng, nên những cải thiện trong các dịch vụ phục vụ khách hàng tác động đến sự hài lòng của khách hàng, nên những cải thiện trong các dịch vụ phục vụ khách hàng cũng sẽ có tác động trực tiếp lên hình ảnh của công ty, cũng như khả năng thu hút các khách hàng mới của công ty.
v Đạo đức kinh doanh góp phần làm hài lòng khách hàng.
Các nghiên cứu và kinh nghiệm hiện thời của nhiều quốc gia cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa hành vi có đạo đức và sự hài lòng của khách hàng. Các hành vi vô đạo đức có thể làm giảm lòng trung thành của khách hàng và khách hàng sẽ chuyển sang mua hàng của các thương hiệu khác. Ngược lại, hành vi đao đức có thể lôi cuốn khách hàng đến với sản phẩm của công ty. Các khách hàng thích mua sản phẩm của các công ty có danh tiếng tốt, quan tâm đến khách hàng và xã hội. Khách hàng nói rằng họ ưu tiên những thương hiệu nào làm điều thiện nếu giá cả và chất lượng các thương hiệu như nhau. Các công ty có đạo đức luôn đối xử với khách hàng công bằng và liên tục cải tiến chất lượng sản phẩm cũng như cung cấp cho khách hàng các thông tin dễ tiếp cận và dễ hiểu, sẽ có lợi thế cạnh tranh tốt hơn và dành được nhiều lợi nhuận hơn. Điểm mấu chốt ở đây là chi phí để phát triển một môi trường đạo đức có thể có một phần thưởng là sự trung thành của khách hàng ngày càng tăng. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Đối với các doanh nghiệp thành công nhất, thu được những lợi nhuận lâu dài thì việc phát triển mối quan hệ tôn trọng lẫn nhau và hợp tác cùng nhau với khách hàng là chìa khóa mở cánh cửa thành công. Bằng việc chú trọng vào sự hài lòng của khách hàng, doanh nghiệp đó tiếp tục làm cho sự phụ thuộc của khách hàng vào công ty ngày càng sâu sắc hơn, và khi niềm tin của khách hàng tăng lên thì doanh nghiệp ấy sẽ có tầm hiểu biết sâu hơn về việc làm thế nào phục vụ khách hàng tăng lên thì doanh nghiệp ấy sẽ có tầm hiểu biết sâu hơn về việc làm thế nào phục vụ khách hàng để phát triển mối quan hệ đó. Các doanh nghiệp thành công mang lại cho khách hàng các cơ hội góp ý kiến phản hồi, cho phép khách hàng được tham gia vào quá trình giải quyết các rắc rối. Một khách hàng cảm thấy vừa lòng sẽ quay lại nhưng một khách hàng không vừa ý sẽ nói cho 10 người khác về việc họ không hài lòng với một công ty nào đó và bảo bạn bè họ tẩy chay công ty đó. Các khách hàng là đối tượng dễ bị tổn thương nhất vì việc khai thác và hoạt động của các công ty không tôn trọng các quyền của con người. Sự công bằng trong dịch vụ là quan điểm của khách hàng về mức độ công bằng trong hành vi của một công ty. Bởi vậy, khi nghe được thông tin tăng giá dịch vụ thêm và không bảo hành thì các khách hàng sẽ phản ứng tiêu cực đối với sự bất công này. Phản ứng của khách hàng đối với sự bất công – ví dụ như phàn nàn hoặc từ chối không mua bán với doanh nghiệp đó nữa – có thể được thúc đẩy bởi nhu cầu trừng phạt và mong muốn hạn chế sự bất công trong tương lai. Nếu khách hàng phải mua một mặt hàng đắt hơn hẳn thì cảm giác không công bằng sẽ tăng lên và có thể nổ thành một sự giận dữ. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Một môi trường đạo đức vững mạnh thường chú trọng vào các giá trị cốt lõi đặt các lợi ích của khách hàng lên trên hết. Đặt lợi ích của khách hàng lên trên hết không có nghĩa là phớt lờ lợi ích của nhân viên, các nhà đầu tư, và cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, một môi trường đạo đức chú trọng đến khách hàng sẽ kết hợp được những lợi ích của tất cả các cổ đông trong quyết định và hoạt động. Những nhân viên được làm việc trong môi trường đạo đức sẽ ủng hộ và đóng góp vào sự hiểu biết về các yêu cầu và mối quan tâm của khách hàng. Các hành động đạo đức hướng tới khách hàng xây dựng được vị thế cạnh tranh vững mạnh có tác dụng đến thành tích của doanh nghiệp và công tác đổi mới sản phẩm.
v Đạo đức kinh doanh góp phần tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Theo một nghiên cứu tiến hành với 500 tập đoàn lớn nhất ở Mỹ thì những doanh nghiệp cam kết thực hiện các hành vi đạo đức và chú trọng đến việc tuân thủ các quy định đạo đức nghề nghiệp thường đạt được thành công lớn về mặt tài chính. Sự quan tâm đến đạo đức đang trở thành một bộ phận trong các kế hoạch chiến lược của các doanh nghiệp. Đây không còn là một chương trình do các chính phủ yêu cầu mà đạo đức đang dần trở thành một vấn đề quản lý trong nỗ lực để giành lợi thế cạnh tranh.
Trách nhiệm công dân của một doanh nghiệp gần đây cũng được đề cập nhiều có liên hệ tích cực đến lãi đầu tư, tài sản và mức tăng doanh thu. Trách nhiệm công dân của doanh nghiệp là đóng góp của một doanh nghiệp cho xã hội bằng hoạt động kinh doanh chính của mình. Đầu tư xã hội, các chương trình mang tính nhân văn và sự cam kết của doanh nghiệp vào chính sách công, là cách mà doanh nghiệp đó quản lý các mối quan hệ kinh tế, xã hội, môi trường là cách mà doanh nghiệp cam kết với các bên liên đới có tác dộng đến thành công dài hạn của doanh nghiệp đó. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Một doanh nghiệp không thể trở thành một công dân tốt, không thể nuôi dưỡng và phát triển một môi trường tổ chức có đạo đức nếu kinh doanh không có lợi nhuận. Các doanh nghiệp có nguồn lực lớn hơn thường có phương tiện để thực thi trách nhiệm công dân của mình cùng với việc phục vụ khách hàng, tăng giá tư nhân viên, thiết lập lòng tin với cộng đồng. Nhiều nghiên cứu đã tìm ra mối quan hệ tích cực giữa trách nhiệm công dân với thành tích công dân. Các doanh nghiệp tham gia các hoạt động sai trái thường phải chịu sự giảm lãi trên tài sản hơn là các doanh nghiệp không phạm lỗi. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, tác động tiêu cực lên doanh thu không xuất hiện trước năm thứ ba từ sau khi doanh nghiệp vi phạm lỗi.
Hai Giáo sư John Kotter và James Heskeu ở Trường Đào tạo quản lý kinh doanh thuộc Harvard, tác giả cuốn sách “Văn hóa công ty và chỉ số hoạt động hữu ích”, đã phân tích những kết quả khác nhau ở các công ty với những truyền thống đạo đức khác nhau. Công trình nghiên cứu của họ cho thấy, trong vòng 11 năm, những công ty “đạo đức cao” đã nâng được thu nhập của mình lên tới 682% (trong khi những công ty đối thủ thường thường bậc trung về chuẩn mực đạo đức chỉ đạt được 36%). Giá trị cổ phiếu của những công ty đạo đức cao trên thị trường chứng khoán tăng tới 901% (còn ở đối thủ “kém tằm hơn chỉ số này chỉ là 74%). Lãi ròng của các công ty “đạo đức cao” ở Mỹ trong 11 năm đã tăng tới 756% (1%).
Như vậy, đầu tư vào cơ sở hạ tầng đạo đức trong tổ chức sẽ mang lại cơ sở cho tất cả các hoạt động kinh doanh quan trọng của tổ chức cần thiết để thành công. Có nhiều minh chứng cho thấy việc phát triển các chương trình đạo đức có mang lại những lợi thế kinh tế. Mặc dù các hành vi đạo đức trong một tổ chức là rất quan trọng xét theo quan điểm xã hội và quan điểm cá nhân. Những khía cạnh kinh tế cũng là một nhân tố quan trọng không kém. Một trong những khó khăn trong việc dành được sự ủng hộ cho các ý tưởng đạo đức trong tổ chức là chi phí cho các chương trình đạo đức không chỉ tốn kém mà còn chẳng manh lại lợi lộc gì cho tổ chức. Chỉ mình đạo đức không thôi sẽ không thể mang lại những thành công về tài chính nhưng đạo đức sẽ giúp hình thành và phát triển bền vững văn hóa tổ chức phục vụ cho tất cả các cổ đông.
v Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự vững mạnh của các quốc gia.
Một câu hỏi quan trọng và thường được nêu ra là liệu hành dộng đạo đức trong kinh doanh có tác động đến kinh tế của một quốc gia hay không. Các nhà kinh tế học thuong đặt câu hỏi tại sao một số nền kinh tế thị trường mang lại năng suất cao, công dân có mức sống cao, trong khi các nền kinh tế khác lại không như thế. Các thể chế xã hội, đặc biệt là các thể chế thúc đẩy tính trung thực, là yếu tố vô cùng quan trọng để phát triển sự phồn vinh về kinh tế của một xã hội. Các nước phát triển ngày càng trở nên giàu có hơn vì có một hệ thống các thể chế, bao gồm đạo đức kinh doanh, để khuyến khích năng suất. Trong khi đó, tại các nước đang phát triển, cơ hội phát triển kinh trế và xã hội bị hạn chế bởi độc quyền, tham nhũng, hạn chế tiến bộ cá nhân cũng như phúc lợi xã hội. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Niềm tin là cái mà các cá nhân xác định, có cảm giác chia sẻ với những người khác trong xã hội. Ở mức độ hẹp nhất của niềm tin trong xã hội là lòng tin vào chính mình, rộng hơn nữa là thành viên trong gia tỉnh và họ hàng. Các quốc gia có sác thể chế dựa vào niềm tin sẽ phát triển môi trường năng suất cao vì có một hệ thống đạo đức giúp giảm thiểu các chi phí giao dịch, làm cạnh tranh trở nên hiệu quả hơn. Trong hệ thống dựa vào thị trường có niềm tin lớn như Nhật bản, anh quốc, canada, hoa kỳ, thụy điển, các doanh nghiệp có thể thành công và phát triển nhờ có một tinh thần hợp tác và niềm tin.
Chúng ta tiến hành so sánh tỉ lệ tham nhũng trong các thể chế xã hội khác như Nigerria và Nga có tỷ lệ tham nhũng cao trong khi đó canada và đức có tỷ lệ tham nhũng thấp. Ta có thể thấy được điểm khác biệt chính giữa các cấp độ về sự vững mạnh và ổn định về kinh tế của các nước này cho ta một minh chứng là đạo đức đóng một vai trò chủ chốt trong công cuộc phát triển kinh tế tiến hành kinh doanh theo một cách có đạo đức và có trách nhiệm tạo ra niềm tin và dẫn tới các mối quan hệ giúp tăng cường năng suất và đổi mới.
CHƯƠNG 2: ĐẠO ĐỨC KINH DOANH THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Đạo đức kinh doanh là một vấn đề mới ở Việt Nam. Các vấn đề như đạo đức kinh doanh, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp… mới chỉ nổi lên kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách Đổi mới và tham gia vào quá trình quốc tế hóa và tòan cầu hóa vào năm 1991. Trước đó, trong thời kinh tế kế hoạch tập trung, những vấn đề này chưa bao giờ được nhắc tới. Trong thời kỳ bao cấp, mọi hoạt động kinh doanh đều do Nhà nước chỉ đạo, vì thế những hành vi có đạo đức được coi là những hành vi tuân thủ lệnh cấp trên. Do khan hiếm hầu hết hàng hóa tiêu dùng, để mua được đã là rất khó, nên không ai có thể phàn nàn về chất lượng hàng hóa. Vì cầu vượt quá cung, chất lượng phục vụ trong mạng lưới cung cấp vô cùng thấp nhưng ít người dám than phiền. Vào thời gian đó, các ngành công nghiệp của Việt Nam chưa phát triển, có rất ít nhà sản xuất và hầu hết đều thuộc sở hữu nhà nước,nên không cần quan tâm đến vấn đề thương hiệu hay sở hữu trí tuệ. Hầu hết lao động đều làm việc cho nhà nước, nơi mà kỷ luật và chế độ lương thưởng đều thống nhất và đơn giản. Tìm được việc làm trong cơ quan Nhà nước là rất khó khăn nên không có chuyện đình công hay mâu thuẫn lao động. Mọi hoạt động trong xã hội đều phải tuân thủ quy định của Nhà nước nên những phạm trù trên là không cần thiết.
Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam tham gia quốc tế hóa, có nhiều phạm trù mới được xuất hiện như: quyền sở hữu trí tuệ, an toàn thực phẩm, đình công, thị trường chứng khoán… và vì thế khái niệm đạo đức kinh doanh trở nên phổ biến hơn trong xã hội. Qua kết quả phân tích các số liệu điều và những tài liệu thu thập qua sách báo, chúng ta có thể rút ra được những kết luận sau về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
2.1.1. Nhận thức của người Việt Nam về đạo đức kinh doanh
Cho đến nay, có rất ít sách chuyên môn về đạo đức kinh doanh được xuất bản ở Việt Nam, và hầu hết là được dịch từ sách của Mỹ. Cuốn sách đầu tiên vềđề tài này được xuất bản ở Việt Nam có lẽ là cuốn: “WHAT’S ETHICAL IN BUSINESS?” by Verne E. Henderson, của Nhà xuất bản McGraw – Hill Ryerson. Cuốn sách này được dịch giả Hồ Kim Chung dịch là “Đạo đức kinh doanh là gì?” và được Nhà Xuất bản Văn hóa phát hành tháng 11 năm 1996. Tuy nhiên, nội dung cuốn sách khá mơ hồ, không đầy đủ, nên đã không gây được nhiều sự chú ý trong giới nghiên cứu ở Việt Nam. Thời gian gần đây, do áp lực của tiến trình toàn cầu hóa, đã có khá nhiều bài báo trên các báo và tạp chí như: Chúng ta (Tạp chí lưu hành nội bộ của công ty FPT, website: www.chungta.com) hay báo Diễn đàn doanh nghiệp (tờ thời báo cho giới doanh nhân Việt Nam do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – VCCI phát hành, website: www.dddn.com.vn) và một số báo và tạp chí khác như: Saigon Times, Thời báo kinh tế Sài Gòn, báo Lao động, etc. Nhưng các bài báo này thường chỉ dừng ở việc nhận định về những sự kiện gần đây ở Việt Nam có liên quan đến đạo đức kinh doanh hoặc cung cấp về một số vụ việc trên các sach báo nước ngoài, chứ không tiến hành khảo sát hay đưa ra một khái niệm cụ thể nào về đạo đức kinh doanh. Hầu hết các trường Đại học, Cao đẳng dạy về kinh doanh ở Việt Nam đều chưa có môn học này, hoặc nếu có cũng chỉ dừng ở hình thức môn tự chọn. Trong nội dung của các môn học có liên quan như kinh doanh quốc tế hay quản trị kinh doanh cũng chưa đề cập đến khái niệm này, hoặc nếu có thì nội dung cũng quá sơ sài. Ví dụ, trong giáo trình môn Văn hóa kinh doanh tại một trường Đại học Kinh tế ở Việt Nam có giành một chương cho Đạo đức kinh doanh nhưng lại coi đạo đức kinh doanh là việc tuân thủ pháp luật trong kinh doanh! (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Quan niệm như vậy là quá hạn hẹp, chưa đánh giá hết tầm quan trọng của khái niệm này. Do áp lực của tiến trình toàn cầu hóa, các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam đề cập khá nhiều đến vấn đề này nhưng lại không đưa ra được một khái niệm chuẩn mực nào. Chính vì vậy, mặc dù thường được nghe về đạo đức kinh doanh nhưng cách hiểu của người dân, của các doanh nghiệp về vấn đề này còn khá mơ hồ. Thực trạng đó đã được thể hiện khá rõ qua kết quả của cuộc điều tra. 40/60 số người được hỏi thường xuyên nghe nhắc đến những vấn đề liên quan đến đạo đức kinh doanh, 20/60 đôi khi nghe nhắc đến vấn đề này. Lưu ý là cuộc điều tra này được tiến hành ở Hà Nội, thủ đô và là thành phố lớn thứ hai của Việt Nam, nên con số này chưa phải là cao. Nhưng khi được hỏi về quan niệm, thế nào là đạo đức kinh doanh, 55/60 số người được hỏi cho “Đạo đức kinh doanh là tuân thủ đúng pháp luật”, chỉ có 5/60 người được hỏi cho “Đạo đức kinh doanh là bảo vệ quyền lợi cho khách hàng” và không ai cho đạo đức kinh doanh phải bao gồm cả hai khái niệm trên! Chính sự hiểu biết mơ hồ này về đao đức kinh doanh đã dẫn đến những thiếu hụt trong thực thi của doanh nghiệp.
2.1.2. Trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội (corporate social responsibility – CSR) (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Để tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi tập trung vào 2 khía cạnh, trách nhiệm của doanh nghiệp với chất lượng hàng hóa và vấn đề bảo vệ môi trường. Câu hỏi thứ nhất về vấn đề này được đặt ra là: “Doanh nghiệp sẽ làm gì nhận được thông tin là có một số hàng hóa của mình bị kẻ xấu tráo đổi với những hàng kém chất lượng, mà bằng hình thức bên ngoài không có khả năng phân biệt được, có thể gây tác hại cho người tiêu dùng?”. Câu hỏi này dựa trên một tình huống có thật là năm 1981, một người bệnh tâm thần đã cho thuốc độc vào một số lọ thuốc giảm đau nhãn hiệu Tylenol do Johnson & Johnson (J&J) sản xuất và bày bán ở các quầy hàng bán thuốc trong những siêu thị ở thành phố Chicago. Sự kiện trên đã làm bảy người thiệt mạng và cảnh sát không bắt được thủ phạm. Mặc dù vụ việc đáng tiếc này chỉ xảy ra ở Chicago và bộ phận an ninh cho rằng người thủ phạm chỉ cho thuốc độc vào một số lọ Tylenol đã bày bán ở những siêu thị này, ban lãnh đạo J&J đã cương quyết tiến hành thu hồi để kiểm định toàn bộ 31 triệu lọ thuốc Tylenol đã phân phối không chỉ ở Mỹ mà ở toàn thế giới, vì theo J&J, không có gì bảo đảm là thủ phạm chỉ bỏ thuốc độc vào các lọ Tylenol lúc đã bày bán, mà không bỏ vào trong lúc sản xuất hoặc trước khi được phân phối. Toàn bộ chi phí để thực hiện quyết định trên là 100 triệu USD. Tuy nhiên, sự thể hiện trách nhiệm xã hội cao của công ty Johnson & Johnson cộng thêm chiến dịch PR đúng đắn đã giúp Tylenol giành lại vị trí trên thương trường chỉ trong vòng 6 tháng. Nhưng trong cuộc diều tra của chúng tôi, chỉ có 42 người, chiếm 42%, chọn phương án “Thu hồi ngay toàn bộ lô hàng đó, chấp nhận thua thiệt về kinh tế”, 50 người, chiếm 50% chọn phương án là “Thông báo tại nơi bán, và để người tiêu dùng tự quyết định”, thậm chí có 8 người, chiếm 8%, chọn phương án “Không làm gì cả, vì không phải lỗi tại công ty của mình”! (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Câu hỏi thứ hai là: “Cho biết quan điểm của bạn, khi một công ty XK sang thị trường EU nước tương có tỷ lệ chất 3 – MPCD nằm trong phạm vi cho phép của Luật Việt Nam, nhưng lại vượt gấp nhiều lần tỷ lệ cho phép của EU?” cũng dựa trên một sự kiện có thật là năm 2002, nước tương của Chinsu, một công ty khá có tiếng ở Việt Nam, đã bị Cơ quan kiểm nghiệm chất lượng thực phẩm của Bỉ phát hiện có chứa chất 3 – MCPD – một chất độc hóa học có thể gây bệnh ung thư ở động vật và con người – ở mức 86 mg/ kg, trong khi đó, tiêu chuẩn của EU chỉ cho phép ở mức 0.05 mg/ kg, tức là gấp gần 200 lần. Nhưng công ty Chinsu tuyên bố không chịu trách nhiệm vì họ không XK nước tương sang Bỉ. Sản phẩm đó có thể được một công ty nào khác tái xuất sang hoặc là hàng nhái. Hơn nữa, tuy hàm lượng 3 – MCPD trong nước tương của họ cao hơn mức quy định của EU nhưng lại nằm trong phạm vi cho phép của Việt Nam! Sự kiện này lần đầu tiên đã cảnh báo các cơ quan chức năng và người tiêu dùng Việt Nam về tác hại của chất 3 – MCPD trong nước tương, một sản phẩm vốn được coi làa an toàn vì sản xuất từđậu tương, là sản phẩm tự nhiên. Đây chính là yếu tố châm ngòi cho scandal năm 2007 về việc 90% doanh nghiệp sản xuất nước tương ở Việt Nam bị cơ quan chức năng tuyên bố vi phạm VSATTP, do hàm lượng chất 3 – MCPD vượt quá mức cho phép, gây điêu đứng cho ngành công nghiệp này. Kể từ đó, toàn thể các doanh nghiệp sản xuất nước tương đều được yêu cầu phải dán nhãn: “Không có 3 – MCPD” lên sản phẩm của mình. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Có lẽ do vụ việc này đã quá nổi tiếng nên quan điểm của người được hỏi trong cuộc điều tra này đã rõ ràng hơn. 33% số người được hỏi cho đó là “Vi phạm luật pháp”, 25% cho là “Vi phạm đạo đức kinh doanh” và 42% cho là vi phạm cả hai! Không ai coi doanh nghiệp là không vi phạm. Nhưng kết quả này vẫn cho thấy sự mơ hồ trong phân định giữa luật pháp và đạo đức kinh doanh, vì ở đây đúng ra là doanh nghiệp đã vi phạm cả hai, do khi XK hàng hóa vào nước nào phải tuân thủ quy định của nước đó. Câu hỏi về trách nhiệm của doanh nghiệp với môi trường cũng dựa trên thực tế là có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đã lợi dụng những yếu kém trong quy định về bảo vệ môi trường của Việt Nam để sử dụng những công nghệ sản xuất gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động và dân cư, nhằm tiết kiệm chi phí. Các ví dụ cho vấn đề này rất phổ biến ở Việt Nam như: các nhà máy dệt không có thiết bị làm sạch không khí, gây bệnh phổi cho công nhân và cư dân xung quanh, nhà máy da giầy sử dụng xả nước thải gây ô nhiễm nguồn nước, các công ty xây dựng không che chắn công trình gây ô nhiễm cho khu vực, không có thiết bị bảo hộ cho người lao động dẫn đến tỷ lệ tai nạn lao động cao… Trong trường hợp này, doanh nghiệp tuy không vi phạm luật pháp nhưng rõ ràng đã cố tình vi phạm đạo đức kinh doanh, vì họ hoàn toàn ý thức được tác hại của hành vi này. Nhưng quan điểm của người được hỏi ở đây lại khá bao dung và ôn hòa! Trả lời cho câu hỏi: “Cho biết quan điểm của bạn về việc một công ty nước ngoài đến lập nhà máy ở Việt Nam để lợi dụng sự lỏng lẻo trong những quy định về môi trường của Việt Nam?”, chỉ có 75% cho là “Không thể chấp nhận được, họ đã vi phạm đạo đức kinh doanh”, còn 25% lại cho là “Bình thường thôi, kinh doanh cần biết tận dụng cơ hội”. Kết quả này cho thấy thực tế là vấn đề môi trường còn ít được quan tâm ở Việt Nam và người Việt Nam còn quá lệ thuộc vào luật pháp khi đánh giá về đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
2.1.3. Vấn đề sở hữu trí tuệ (Intellectual property) ở Việt Nam
Đây là vấn đề nóng, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở hầu hết các nước đang phát triển khác. Tình trạng vi phạm SHTT tràn lan ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân. Trước hết, cho đến đầu thế kỷ XX Việt Nam là nước nông nghiệp lạc hậu, những thành tựu về các sản phẩm cần bảo hộ như kiểu dáng công nghiệp, phát minh,… hầu như chưa có, nên không có các quy định về bảo hộ SHTT. Hơn nữa, là nước có nền văn hóa trọng tập thể, người Việt Nam không có truyền thống bảo hộ sở hữu cá nhân. Trong thời phong kiến và cả thời kỳ trước hội nhập ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu, văn nghệ sĩ, đều sống bằng lương chứ luật pháp không quy định chế độ bản quyền tác giả, thù lao cho tác giả rất ít ỏi vì quan niệm là phải phục vụ tập thể. Vấn đề này chỉ được thật sự đặt ra sau năm 1991, khi Việt Nam tham gia vào tiến trình hội nhập và nhất là sau năm 1997, khi Việt Nam ký Hiệp định TRIPS. Nhưng với thời gian quá ngắn ngủi, chỉ hơn 10 năm so với lịch sử bảo hộ hàng trăm năm của các nước Âu – Mỹ, ý thức về bảo hộ quyền SHTT của người dân Việt Nam còn rất sơ sài. Một lý do nữa cho việc vi phạm SHTT tràn lan ở Việt Nam là nguyên nhân kinh tế. Khi thu nhập của người dân còn quá thấp, trong khi giá cả các sản phẩm có bản quyền lại quá cao và rất phổ biến thì khó có thể hy vọng SHTT sẽ được tôn trọng. Một ví dụ về vấn đề này là về việc xuất bản cuốn sách về cậu bé phù thủy Harry Potter của J.K. Rowling, một tác phẩm văn học thiếu nhi rất được ưa chuộng ở Việt Nam. Tháng 8 năm 2007, cùng với thiếu nhi trên toàn thế giới, trẻ em Việt Nam rất hồi hộp chờ mong tập 7 và cũng là tập cuối cùng trong Bộ sách này: Harry Potter and the Deathly Hallows, nhưng lúc đó chỉ có bản tiếng Anh. Cùng với phong trào học tiếng Anh, việc đọc sách bằng nguyên bản ngày càng phổ biến hơn. Hơn nữa, nếu muốn đọc bản dịch các em sẽ phải chờ chừng 6 tháng nữa. Nhưng các bậc cha mẹ ở Việt Nam lại bị đặt trước một tình thế nan giải nếu họ muốn bảo vệ bản quyền. Giá bìa của quyển sách này là 38 USD, trong khi thu nhập bình quân Việt Nam năm 2007 chỉ ở mức trên 600 USD và giá sách lậu chỉ có khoảng 7 USD. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Một cách vi phạm SHTT khá phổ biên ở Việt Nam là việc công ty cố tình đặt tên cho nhãn hiệu hàng hóa của mình tương tự một nhãn hiệu nổi tiếng đã có trước để trốn tránh luật pháp và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Ví dụ cho tình trạng này quá nhiều, như Hongda và Honda, La Vierge và La Vie,… Kết quả điều tra về vấn đề này đã khẳng định cho nhận định trên về SHTT ở Việt Nam. Để trả lời cho câu hỏi: “Cho biết quan điểm của bạn về việc một công ty cố tình đặt tên nhãn hiệu hàng hóa của mình gần giống với một nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng ?”, chỉ có 16 người cho là “Vi phạm luật pháp”, 37 người cho là: “Vi phạm đạo đức kinh doanh”, và 47 người cho là: “Không vi phạm gì cả vì không hoàn toàn giống”. Đáng chú ý là trong số 47 người không cho là vi phạm, có 8 người sinh viên, là nhóm người ít nhiều có được học về vấn đề này, chứng tỏ SHTT còn là vấn đề nan giải ở Việt Nam trong thời gian tới.
2.1.4. Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Thời gian qua, đình công đang là một vấn đề nóng ở Việt Nam.báo Người Lao Động hôm 12-7-2011 cho biết, dựa theo thống kê của Tổng LĐLĐ (Liên Đoàn Lao Động) Việt Nam, tính đến hết ngày 30-6, cả nước đã xảy ra 440 cuộc ngừng việc tập thể tại 23 tỉnh, thành, nhiều gấp 3 lần so với cùng kỳ năm 2010.
Tình hình đình công tại Sài Gòn đang trở nên “nghiêm trọng,” theo lời Bí thư Thành ủy TP.SG Lê Thanh Hải.
Các nguyên nhân chính dẫn đến đình công bao gồm:
– Người lao động không hài lòng với điều kiện làm việc, môi trường ô nhiễm, công cụ lao động không được thẩm tra, an toàn lao động kém, không có kiểm tra sức khỏe định kỳ cho nhân công và tình trạng tai nạn nghề nghiệp khá phổ biến.
– Lạm phát năm 2010 tăng cao tới 11,75% nên mức lương các doanh nghiệp trả cho lao động vẫn rất thấp so với mặt bằng giá cả. Vì thế, người lao động không hài lòng và không trung thành với doanh nghiệp.
– Xuất thân từ nông dân, hầu hết người lao động thiếu kiến thức về Luật Lao động và thiếu kỹ năng làm việc trong môi trường công nghiệp nên năng suất lao động thấp và có những phản ứng trái pháp luật khi có xung đột.
Điều đáng ngạc nhiên là tình trạng này xảy ra không chỉ ở các doanh nghiệp tư nhân trong nước, được coi là ít vốn và không am hiểu luật pháp, mà còn rất phổ biến ở nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là Đài Loan và Hàn Quốc. Theo Viện Công nhân và Công đoàn thuộc Liên đoàn Lao động Việt Nam, trong 10 năm qua đã có 878 cuộc đình công xảy ra tại các doanh nghiệp FDI, chiếm 70,7% tổng số cuộc đình công ở Việt Nam. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Một ví dụ điển hình cho vấn đề này là Theo hãng tin Đức DPA, một cuộc đình công của khoảng 2000 công nhân một xí nghiệp may mặc của Hàn Quốc ở tỉnh Thái Bình hôm nay, 14/07/2011, đã bước sang ngày thứ hai. Những người đình công đòi tăng lương để đối phó với giá cả đắt đỏ.Cuộc đình công của công nhân công ty Ivory Garment Company, 100% vốn của Hàn Quốc, chuyên sản xuất các mặt hàng may mặc xuất khẩu đóng tại huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, bắt đầu từ ngày hôm qua, (13/7).
Theo lời bà Nguyễn Thị Hằng, chủ tịch huyện Vũ Thư thì các công nhân tham gia đình công cho biết họ không thể sống được với đồng lương mà công ty trả cho họ hiện nay. Những người đình công đòi chủ công ty phải tăng các khoản tiền phụ cấp để bù vào khoản tiền lương vốn đã thấp nay lại phải hứng chịu thêm giá cả đời sống gia tăng. Theo bà Hằng thì cuộc đình công của các công nhân diễn ra ôn hoà.
Được biết tiền lương khởi điểm cho một công nhân của công ty hiện tại là 1,5 triệu đồng một tháng (tương đương với 75 đô la Mỹ), người có thâm niên 5 năm thì mức lương khoảng 2 triệu đồng. Trong khi đó tại Việt Nam, lạm phát vẫn tiếp tục leo thang. Chỉ trong 2 quý đầu của năm 2011, lạm phát đã tăng tới 13,29%. 8.000 công nhân Công ty TaeKwang Vina đình công
Sáng 13.1, khoảng 8.000 công nhân đang làm việc ca 1 tại Công ty TaeKwang Vina (đóng tại KCN Biên Hòa 2, TP Biên Hòa, Đồng Nai; chuyên sản xuất giày da, 100% vốn Hàn Quốc) đồng loạt đình công. Các công nhân đề nghị công ty phải công khai thang bảng lương, có chế độ phù hợp với công nhân nữ về thai sản, không được trừ tiền công nhân nghỉ bệnh, công bố mức thưởng tết… (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Nội dung: Chiều cùng ngày, Sở LĐ-TB-XH Đồng Nai cùng các ban ngành vận động công nhân trở lại làm việc, đồng thời thương lượng với công ty về những yêu cầu của công nhân đưa ra.
Công ty Marumitsu là công ty 100% vốn đầu tư của Nhật Bản, chuyên sản xuất kinh doanh đồ gỗ, đồ nội thất cao cấp.
Từ chiều ngày 13/4/2011, 2500 công nhân nhà máy Marumitsu, 100% vốn của Nhật Bản, đã đồng loạt đình công biểu tình bất bạo động tại cửa công ty thuộc Khu công nghiệp Quang Minh, huyện Mê Linh, ngoại thành Hà Nội.
Kết quả của một cuộc điều tra của Viện Công nhân và Công đoàn năm 2011, được tiến hành ở các địa phương tập trung nhiều công ty vốn đầu tư nước ngoài như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hải Dương, cho thấy công nhân tại 45% các công ty FDI than phiền về lương thấp, tại 16% công ty, công nhân phải làm thêm giờ quá nhiều (có doanh nghiệp làm thêm đến 500 – 600 giờ/năm). Hầu hết các công nhân ở các công ty có vốn đầu tư nước ngoài nhận mức lương chỉ khoảng từ 800.000 VND (50USD) đến 1.000.000 VND (62 USD) một tháng. Như vậy, chỉ có 30% công nhân ở công ty FDI có thể trang trải được chi phí cuộc sống. Để nâng cao thu nhập hàng tháng cho chi tiêu hàng ngày, 42,5% công nhân phải làm thêm giờ, đặc biệt là những người làm trong ngành may mặc và thuộc da. Ở trong nhiều xí nghiệp may mặc, tỷ lệ nữ công nhân làm việc thêm giờ lên tới 55%, nhiều người làm 16h một ngày đến khi ngất xỉu, nhưng cũng chỉ được nghỉ hôm đó, hôm sau phải đi làm tiếp nếu không muốn bị đuổi việc!. Đây là một hành vi không thể tha thứ được!
Trong những năm gần đây, mặc dù các công ty đã tăng lương nhưng mức tăng cũng ít hơn quy định. Rất nhiều xí nghiệp cũng không thực hiện những điều ghi trong hợp đồng với công nhân và các hợp đồng lao động tập thể, như mức tăng lương, giờ làm việc và các trợ cấp xã hội, bao gồm nghỉ phép định kỳ, đau ốm, tình trạng mang thai và đền bù cho tai nạn lao động. Cho đến nay, chỉ 50% công ty FDI ký hợp đồng lao động tập thể để đảm bảo lợi ích cho người lao động, điều dẫn đến bất đồng giữa người lao động và chủ. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Để giải quyết tình trạng này, Viện đã tổ chức một cuộc thanh tra gắt gao và đưa ra những hình phạt cứng rắn cho những công ty vi phạm luật lao động, bao gồm cả thiếu cung cấp bảo hiểm y tế và bảo hiểm thân thể. Viện cũng đề nghị Nhà nước sửa đổi Luật Lao động và các luật có liên quan để xây dựng khung pháp lý cho đình công, bảo vệ được quyền lợi của cả người lao động lẫn chủ xí nghiệp. Đây là một vấn đề cần được sớm giải quyết để bảo vệ quyền lợi cho người lao động và nâng cao tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư ở Việt Nam, nhằm thu thút các nhà đầu tư nước ngoài.
Có lẽ do vấn đề quan hệ chủ – thợ đã được đề cập nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, nên trong cuộc điều tra của chúng tôi, kết quả trả lời khá khả quan. Luật pháp Việt Nam quy định chủ doanh nghiệp không có quyền từ chối nhận lao động nữ với lý do đang nuôi con nhỏ, lao động nữ có con nhỏ dưới 3 tuổi được quyền đi làm muộn 1h và không bị buộc phải làm thêm giờ. Nhưng trên thực tế, quy định này chỉ được tuân thủ tại các cơ quan nhà nước và ít được để ý tại các doanh nghiệp tư nhân hay FDI. Khi được yêu cầu phát biểu quan điểm về việc “Một doanh nghiệp từ chối tiếp nhận lao động nữ đang nuôi con nhỏ hoặc buộc làm thêm giờ khi lao động nữ đang nuôi con dưới 3 tuổi”, 25% số người được hỏi cho là vi phạm luật pháp, 66,67% cho là vi phạm đạo đức kinh doanh và chỉ có 5 người (chiếm 8.33%) cho là không vi phạm, vì mọi người lao động có nghĩa vụ làm việc như nhau. Như vậy, chúng ta có thể cho là mặc dù còn những hạn chế về nhận thức nhưng đại đa số người tham gia điều tra đã có ý thức tương đối rõ ràng về vấn đề này!
2.1.5. Nghĩa vụ và trách nhiệm về măt đạo đức của doanh nghiệp với các nhà đầu tư
Đây là vấn đề còn rất mới mẻ ở Việt Nam do thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất non trẻ (chưa đầy 10 tuổi) nên những quy định về tính trung thực trong báo cáo tài chính, công khai thông tin với các nhà đầu tư của doanh nghiệp,… vẫn còn chưa chặt chẽ. Vì vậy, thời gian qua đã xuất hiện hiện tượng các doanh nghiệp đưa ra những thông tin chưa chính xác để trục lợi, gây lao đao cho nhiều nhà đầu tư. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Vụ việc nghiêm trọng đầu tiên là việc Joint stock Bien Hoa Confectionery Company (Bibica) gian dối trong việc khai báo kết quả kinh doanh năm 2002 và 6 tháng đầu năm 2003. Bibica là một trong 21 công ty đăng ký lên sàn đầu tiên ở Việt Nam và là công ty niêm yết đầu tiên trong ngành bánh kẹo. Vì vậy, các nhà đầu tư trông đợi rất nhiều vào lợi nhuận của công ty sau khi niêm yết. Để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, thời gian này công ty đã đồng loạt triển khai các dự án đầu tư mới nhằm mở rộng sản xuất – kinh doanh, đầu tư phát triển các sản phẩm mới (bánh trung thu, Layer Cake, chocolate), xây dựng Nhà máy Bánh kẹo Biên Hòa 2… nên số nợ ngân hàng gia tăng. Thêm vào đó, giá nguyên liệu đầu vào tăng nhanh, tình hình nhân sự trong bộ phận Tài chinh – Kế toán có nhiều biến động đã làm gia tăng thêm các khó khăn cho công ty. Trước tình hình đó, công ty cần thu hút thêm các nhà đầu tư để gia tăng vốn nên đã đưa ra một báo cáo tài chính không chính xác. Khi vụ việc vỡ lở, các cổ đông được biết năm 2002, Công ty đã lỗ 10,086 tỷ đồng (tương đương 7.500.000 USD), gần gấp đôi con số lỗ 5,4 tỷ đồng mà công ty từng công bố. Hậu quả là giá cổ phiếu Bibica sụt thê thảm, gây thiệt hại lớn cho các cổ đông. Cùng thời điểm đó, Bibica phải đối mặt với hình phạt vì vi phạm luật quản lý chứng khoán của Ủy ban chứng khoán nhà nước (SCCI) và rơi vào tình trạng gần như phá sản.
Nhưng do lợi nhuận trên thị trường chứng khoán quá lớn, nên những vụ việc tương tự vẫn tiếp diễn. Thiên Việt là một công ty chứng khóan mới thành lập, nhưng đã được các nhà đầu tư hết sức quan tâm vì Nguyễn Trung Hà, Chủ tịch của Thiên Việt là Phó TGĐ của một công ty hàng đầu Việt Nam và trong giấy tờ đăng ký kinh doanh, Phạm Kinh Luân, một chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực tài chính, được nêu tên với tư cách là Tổng Giám đốc của Thiên Việt. Vì vậy mặc dù chưa niêm yết nhưng cổ phiếu của Thiên Việt đã được các nhà đầu tư săn lùng. Đặc biệt, từ khi Ban Giám đốc Thiên Việt đưa ra thông tin là họđã ký hợp đồng liên doanh với Goldman Sachs, một tập đòan tài chính hàng đầu của Mỹ, thậm chí Thiên Việt còn đưa ra bản thỏa thuận hợp tác với chữ ký của Chủ tịch Goldman Sachs và Thiên Việt với các phương tiện thông tin đại chúng, thế nên giá cổ phiếu của Thiên Việt tăng rất nhanh, gấp nhiều lần so với giá niêm yết. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau các phương tiện thông tin đại chúng đã cung cấp thông tin rằng Goldman Sachs từ chối hợp tác với Thiên Việt: (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
“Edward Naylor, Giám đốc bộ phận truyền thông của Goldman Sachs ở châu Á, trong email gửi cơ quan thông tấn Việt Nam, đã nhấn mạnh rằng Goldman Sachs không liên kết với công ty chứng khóan Thiên Việt.”
“Gần đây chúng tôi đã có một cuộc gặp mặt không chính thức mang tính chất thăm dò như chúng tôi đã thực hiện với các công ty chứng khoán khác,” bức thư viết. “Cho đến nay, đại diện của Thiên Việt và Goldman Sachs mới chỉ gặp mặt trong các buổi gặp “th ăm dò” như Goldman Sachs với các công ty chứng khoán khác ở Việt Nam”.
Khi được hỏi về bản thỏa thuận hợp tác v ới chữ ký của cả hai bên mà Thiên Việt đã đưa ra cho các phương tiện thông tin đại chúng, ông Naylor nói rằng Goldman Sachs đôi khi ký những thỏa thuận tương tự với những công ty chứng khoán tư nhân khi tập đoàn đang tìm kiếm các cơ hội kinh doanh ở Việt Nam, để Goldman Sachs có thể thâm nhập được vào thị trường Việt Nam. Thỏa thuận đó không thể được coi là bằng chứng về một sự liên kết của 2 công ty”
Thêm vào đó, ông Phạm Kinh Luân cũng cho biết ông chưa hề ký HĐ làm việc cho Thiên Việt. Vì vậy, Thiên Việt đã bị phạt nặng bởi Trung tâm giao dịch chứng khóan thành phố Hồ Chí Minh (HSTC) và Ủy ban chứng khoán nhà nước vì đưa ra thông tin không rõ ràng và không ngay thẳng. Người thiệt hại nhiều nhất ở đây chính là các nhà đầu tư, những người đã bị thu hút bởi những thông tin sai lệch mà Ban Giám đốc công ty Thiên Việt đưa ra.
Nhưng những vụ việc như vậy vẫn có nguy cơ xảy ra bất cứ lúc nào vì luật pháp cũng như ý thức của các nhà kinh doanh Việt Nam về vấn đề này còn chưa đầy đủ. Trong kinh doanh việc gặp khó khăn hay rủi ro là khá thường xuyên. Khi gặp tình huống này, những công ty uy tín trên thế giới thường chọn cách thông báo rộng rãi cho các cổ đông để kêu gọi sự hợp tác của họ nhằm giúp công ty vượt qua khó khăn. Mặc dù tiềm ẩn nhiểu rủi ro nhưng cách này giúp công ty giữ được lòng tin của các nhà đầu tư, và thoát khỏi nguy cơ bị bỏ rơi khi thông tin bại lộ. Nhưng trong cuộc điều tra của chúng tôi, để trả lời câu hỏi “Khi một dây chuyền sản xuất trong công ty bị hỏng, dẫn đến sản lượng sản xuất bị suy giảm, nhưng nếu thông tin này bị lộ ra ngoài, cổ phiếu của công ty sẽ bị mất giá nghiêm trọng, thì công ty nên làm gì?”, chỉ có 42% số người được hỏi chọn cách thông báo rộng rãi cho các nhà đầu tư, 50% chọn cách “Kìm giữ thông tin một thời gian để tìm cách sửa chữa dây chuyền sản xuất” và 8% chọn cách “Không thông báo gi cả cho đến khi bắt buộc!” Mặc dù kết quả này là khá khả quan,vì đến 92% số người được hỏi không có ý định che giấu thông tin, ít ra là trong một thời gian nhưng đây cũng là một thiếu sót trong nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam.
2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
2.2.1. Đánh giá về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Do điều kiện thời gian và thông tin nên chắc chắn bài viết này chưa thể trình bày được hết các khía cạnh về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. Tuy nhiên, qua những ví dụ thực tế và kết quả điều tra nêu trên, bước đầu chúng ta cũng có thể đưa ra một số nhận xét sau về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam:
Hiểu biết của nhà kinh doanh cũng như người dân Việt Nam nói chung về đạo đức kinh doanh còn rất hạn chế, hầu hết đều gắn khái niệm đạo đức kinh doanh với tuân thủ pháp luật trong kinh doanh. Cách hiểu này đã thu hẹp đáng kể phạm vi áp dụng đạo đức kinh doanh, hơn nữa tại một quốc gia mà hệ thống phát luật chưa đầy đủ và chặt chẽ như Việt Nam thì cách hiểu này càng làm ý thức về đạo đức kinh doanh khó phát huy tác dụng.
Ý thức của người dân về những phạm trù như: Trách nhiệm của doanh nghiệp v ới xã hội, Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động, Nghĩa vụ và trách nhiệm về măt đạo đức của doanh nghiệp v ới các nhà đầu tư còn khá mơ hồ, lệ thuộc vào luật pháp chứ chưa ý thức được trách nhiệm của nhà kinh doanh với khách hàng và xã hội. Một tỷ lệ cao những người được hỏi tỏ ra bị động, chỉ chịu thực thi trách nhiệm khi bị bắt buộc chứ chưa chủ động hành động vì lợi ích xã hội.
Điểm yếu kém nhất trong nhận thức của người Việt Nam thể hiện qua cuộc điều tra này chính là ý thức về môi trường và về vấn đề sở hữu trí tuệ. Điều này cũng trùng hợp với những kết quả điều tra của LHQ và những nguồn thông tin khác. Về lâu dài đây là vấn đề cần được lưu ý giải quyết để đảm bảo sự phát triển bền vững cho Việt Nam Tuy nhiên, cuộc điều tra cũng cho thấy một số tín hiệu đáng mừng về tương lai của đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. Trước hết, 100% số người được hỏi đã từng được nghe về đạo đức kinh doanh. Mặc dù khái niệm đạo đức được truyền đạt còn mơ hồ nhưng chỉ riêng việc người dân có quan tâm nhiều hơn tới vấn đề này cũng đã là một tín hiệu đáng mừng. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Một khía cạnh đáng mừng nữa là kết quả trả lời của khối sinh viên, dù phần lớn là sinh viên năm thứ nhất, tức là chưa được đào tạo nhiều về kiến thức chuyên môn, nhưng đã chính xác hơn nhiều so vơi khối doanh nghiệp. Hầu hết sinh viên thường xuyên nghe nói về đạo đức kinh doanh (17/20 người được hỏi), cao hơn hẳn so với tỷ lệ chung (85% so với 67%). Tỷ lệ sinh viên cho đạo đức kinh doanh là “bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng” cũng cao hơn nhiều so với tỷ lệ chung (35% so với 8%). Trong tình huống 3, để trả lời câu hỏi về phản ứng của doanh nghiệp với việc hàng của công ty bị kẻ xấu đánh tráo, không sinh viên nào đồng ý với phương án “Không thông báo gì cả vì không phải là lỗi của doanh nghiệp ”, so với 8% tỷ lệ chung.
Trong tình huống 6, khi trả lời câu hỏi về việc một công ty nước ngoài đến lập nhà máy ở Việt Nam để trốn tránh sự lỏng lẻo trong những quy định về môi trường của Việt Nam, không sinh viên nào đồng ý với phương án “Doanh nghiệp được phép tận dụng cơ hội” so với 25% tỷ lệ chung. Nhưng trong tình huống số 7 về sự kiện “một dây chuyền sản xuất trong công ty bị hỏng, dẫn đến sản lượng sản xuất bị sút giảm nghiêm trọng, nhưng nếu thông tin này bị lộ ra ngoài, cổ phiếu của công ty sẽ bị sút giảm nghiêm trọng“, mặc dù có tới 65% sinh viên cho là doanh nghiệp cần “Thông báo rộng rãi cho các cổ đông để kêu gọi sự hợp tác c ủa họ nhằm giúp công ty vượt qua khó khăn” so với 42% tỷ lệ chung, nhưng lại có tới 3 sinh viên (chiếm 15% so với so với tỷ lệ chung là 8%) cho là nên “Không thông báo gi cả cho đến khi bắt buộc”. Kết quả này có thể bắt nguồn từ việc thị trường chứng khoán còn quá mới mẻ ở Việt Nam, các em lại là sinh viên những năm đầu nên những hiểu biết về trách nhiệm của doanh nghiệp với thị trường này chưa nhiều. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Tương tự như vậy, trong câu số 8 về quan điểm trước việc “Một doanh nghiệp từ chối tiếp nhận lao động nữ đang nuôi con nhỏ hoặc buộc làm thêm giờ khi lao động nữ đang nuôi con dưới 3 tuổi”, cũng có tới 40% sinh viên cho đó là vi phạm luật pháp so với 24% tỷ lệ chung, nhưng vẫn còn 15% so với 8% tỷ lệ chung cho là “Không vi phạm vì mọi người lao động phải có nghĩa vụ làm việc như nhau!” Đây có lẽ là kết quả của việc thiếu hiểu biết về luật lao động và thói quen áp dụng máy móc những nguyên tắc về bình đẳng giới, vốn được tuyên truyền rất phổ biến ở Việt Nam. Mặc dù kết quả điều tra về hai khía cạnh này chưa cao, nhưng nhìn chung, nhận thức của khối sinh viên về đạo đức kinh doanh rõ ràng cao hơn và thể hiện một tinh thần trách nhiệm tốt hơn so với kết quả điều tra chung.
Với số mẫu điều tra còn ít ỏi nhưng những kết quả khảo sát ban đầu của khối sinh viên, những nhà kinh doanh tương lai, cũng có thể coi là tín hiệu khả quan về nâng cao nhận thức của giới doanh nhân Việt Nam trong thời gian tới.
2.2.2. Một số đề xuất nhằm phát triển và hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Qua những ví dụ thực tế và số liệu thu thập được về trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy mặc dù có một số tín hiệu khả quan, nhưng hiểu biết về đạo đức kinh doanh của cả giới trí thức và giới doanh nghiệp ở Việt Nam đều có những nghiêm trọng. Những thiếu sót này không những đã gây tác hại cho người tiêu dùng, cho các nhà kinh doanh, cho xã hội mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh của doanh nghiệp, làm doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và lâu dài sẽ ảnh hưởng đến hình ảnh quốc gia trên thị trường quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, tác giả xin mạn dạn đưa ra một số đề xuất sau:
Trước hết, cần nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện khung luật pháp Việt nam nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho đạo đức kinh doanh.
Đây là biện pháp tiên quyết, vì luật pháp chính là khung dễ thấy nhất cho đạo đức kinh doanh. Cần hoàn thiện các Bộ Luật có liên quan như Luật Đầu tư, Luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ Người tiêu dùng, Luật Môi trường… Một nguyên nhân quan trọng cho tình trạng yếu kém của đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay xuất phát từ sự thiếu hoàn thiện trong pháp luật Việt nam. Nếu luật pháp quy định chặt chẽ hơn, hợp lý hơn sẽ tránh được tình trạng doanh nghiệp nệ vào sự sơ hở của luật pháp mà trốn tránh nghĩa vụ đạo đức của mình. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Một ví dụ điển hình cho vấn đề này là Luật bảo vệ người tiêu dùng. Vừa qua, tại Hội thảo “Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và định hướng xây dựng Luật Bảo vệ quyền người tiêu dùng” do Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) vừa tổ chức tại Hà Nội, ông Hank Baker (đại diện Dự án Star Việt Nam) khẳng định, người tiêu dùng Việt Nam chưa được đảm bảo quyền lợi khi sử dụng các hàng hóa, dịch vụ. Đa số vẫn trông chờ vào “lòng tốt” của người bán hàng khi mua các sản phẩm trên thị trường.Theo ông Baker : “Khi gặp một sản phẩm không ưng ý, chúng ta vẫn hy vọng mình sẽ may mắn lấy lại được tiền. Trong khi đó, trên thị trường lại có quá nhiều người bán hàng không có tâm với hàng hóa mình bán ra. Hậu quả cuối cùng là người tiêu dùng phải chịu thiệt thòi”. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng tại Việt Nam chưa được thực thi một cách hiệu quả.
Theo bà Vũ Thị Bạch Nga, Trưởng Ban Bảo vệ người tiêu dùng (Cục Quản lý cạnh tranh), hiện chỉ có hai văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề này là Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (năm 1999) và Nghị định 55/2008/NĐ – CP ngày 24/4/2008 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh này. Tuy nhiên, bà Nga cho biết, các quy định của pháp lệnh lại chưa phát huy được hiệu lực trên thực tế. Quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng đang được quy định rất chung chung. Các quy định mới chỉ được “gọi tên” mà chưa đi sâu phân tích bản chất cụ thế của các quyền và trách nhiệm đó. Ví dụ, điều 8 của Pháp lệnh có ghi: “Người tiêu dùng được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe và môi trường khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ…” nhưng lại không quy định quyền này được thể hiện như thế nào trên thực tế? Người tiêu dùng phải làm gì để được đảm bảo an toàn? Ngoài ra, còn tồn tại những bất cập trong quy định về quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Luật Bảo vệ Người tiêu dùng cũng không quy định các chế tài để xử lý hành vi vi phạm của tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ như cân, đong sai, thông tin về dịch vụ hàng hóa thiếu trung thực… “Điều 16 của Pháp lệnh quy định, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải giải quyết kịp thời mọi khiếu nại của người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ của mình khi chúng không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đã công bố hoặc hợp đồng đã giao kết. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục ra sao, hậu quả pháp lý mà cá nhân tổ chức phải gánh chịu khi không thực hiện yêu cầu này như thế nào lại không được nói tới”, bà Nga phân tích. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Có mặt tại cuộc Hội thảo, Đại diện Cục Quản lý cạnh tranh cũng cho rằng, những quy định về quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành vẫn còn mang tính chất “nghị quyết”, chưa thực sự đảm bảo cơ chế cho việc thực thi các quyền này. Theo đại diện Cục Quản lý cạnh tranh, những hạn chế trong các văn bản quy phạm pháp luật đã khiến cho người tiêu dùng Việt Nam chưa được bảo vệ tốt nhất về quyền lợi. Tuy nhiên, ông Hank Baker tỏ ý quan ngại rằng, nếu dự luật vẫn được thiết kế theo cách cũ là tập trung xử phạt hành vi vi phạm, thì hiệu quả bảo vệ người tiêu dùng không cao. Theo ông Hank Baker, yêu cầu đặt ra lúc này đối với thực tế ở Việt Nam là cần có luật về hội để tăng cường vai trò của các hội trong công tác bảo vệ người tiêu dùng. Nếu không nhanh chóng sửa đổi những thiếu sót này thì quyền lợi của người tiêu dùng vẫn chưa được đảm bảo, hay như ông Hank Baker thừa nhận: “Tôi không thích là người tiêu dùng Việt Nam!”.
Cần nâng cao nhận thức về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Cần lưu ý là không chỉ các nhà kinh doanh, các nhà nghiên cứu mới cần nắm được kiến thức về đạo đức kinh doanh mà cả xã hội cần ý thức điều này. Vì vậy, trước hết các phương tiện thông tin đại chúng nên tiến hành phổ cập các kiến thức về đạo đức kinh doanh nhằm định hướng hành vi của người dân, để người dân có thể nắm được nhằm tự bảo vệ quyền lợi cho mình và giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Tiếp theo, các cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý, hướng dẫn doanh nghiệp như Bộ Công thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam, Sở Kế hoạch – Đầu tư ở các tỉnh, Thành phố cần quan tâm phổ biến những kiến thức chung nhất về đạo đức kinh doanh. Việc này có thể tiến hành bằng nhiều cách như tổ chức các lớp học cho doanh nghiệp về đạo đức kinh doanh, chọn lựa dịch và xuất bản một số sách có uy tín của nước ngoài về đề tài này… Nên lưu ý là sách cho doanh nghiệp cần ngắn gọn, nhiều tình huống thực tế, kiểu Cẩm nang về đạo đức kinh doanh chẳng hạn… Các Trường Cao đẳng, Đại học khối Kinh tế cũng cần đưa nội dung về đạo đức kinh doanh vào chương trình đào tạo của mình, có thể dưới dạng một môn riêng hay gài vào các môn học khác như quản trị nhân sự, nghiệp vụ kinh doanh… (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Vì bản quyền của các sách kinh doanh thường đắt và dịch thuật không dễ dàng, nên có thể tranh thủ sự trợ giúp của các tổ chức nước ngoài để đảm bảo hiệu quả cho việc làm này. Một ví dụ cho cách làm này là sự kiện tháng 3 năm 2008, Trung tâm Thông tin thuộc Đại sứ quán Hoa Kỳ đã tài trợ cho Nhà Xuất bản Trẻ để dịch và xuất bản cuốn “Business Ethics: A Manual For Managing A Responsible Business Enterprise In Emerging Market Economies” của các tác giả Igor Y. Abramov, Kenneth W. Johnson and Donald L. Evans, Nhà xuất bản Diane Pub Co mới phát hành tháng 5 năm 2004, một cuốn sách được đánh giá là có uy tín trong giới nghiên cứu. Đây là một cách làm hay, trên thế giới hiện nay có khá nhiều tổ chức có uy tín về đạo đức kinh doanh như Hiệp hội Quốc tế về Kinh doanh, Kinh tế và Đạo đức (The International Society of Business Economics and Ethics – ISBEE), được thành lập từ năm 1989, có trụ sở chính ở Mỹ, và là cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức các Đại hội về Đạo đức kinh doanh 4 năm 1 lần… Nếu tranh thủ được sự trợ giúp của họ để lưu hành và phổ biến những tài liệu có chất lượng về vấn đề này sẽ tiết kiệm được kinh phí và phổ biến được những kiến thức tiên tiến nhất.
Cần có những biện pháp khuyến khích doanh nghiệp nâng cao đạo đức kinh doanh của mình.
Chúng ta cần ý thức rằng, không có ranh giới cố định nào đạo đức mà đạo đức là một phạm trù mà con người luôn cần vươn lên để đạt đến nó. Rất khó kiểm soát đạo đức vì nó vượt xa hơn việc tuân thủ pháp luật rất nhiều. Với đạo đức kinh doanh, vấn đề còn phức tạp hơn vì việc tuân thủ đạo đức trong ngắn hạn thường không đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, trong khi lợi nhuận mới là mục đích chính của doanh nghiệp. Vì vậy, các cơ quan hữu quan cần có những biện pháp để khuyến khích doanh nghiệp có thành tích trong đạo đức kinh doanh như trong các giải Sao Vàng Đất Việt, Bông Hồng Vàng… có thể đưa việc có thành tích trong đạo đức kinh doanh là một tiêu chuẩn để xét. Các cơ quan thông tin đại chúng có thể đăng bài tôn vinh những doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn này… Ngược lại, các cơ quan quản lý cũng cần có biện pháp phạt những doanh nghiệp vi phạm đạo đức kinh doanh với mức phạt tương xứng. Không thể tiếp tục tình trạng doanh nghiệp buộc người lao động làm thêm giờ 16 – 20h/ngày hàng tuần liền đến mức lao động ngất xỉu mà chỉ bị phạt vài triệu VND; Các doanh nghiệp vi phạm quy định bảo vệ môi trường như xả hóa chất ra sông làm cá chết hàng loạt, người dân không có nước sinh hoạt, etc. mà lại được cho phép tiếp tục hoạt động trong khi tìm biện pháp xử lý… (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Cũng như văn hóa, đạo đức nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng là những phạm trù phức tạp, cần nhiều thời gian và công sức để hoàn thiện và phát triển. Là một quốc gia đang phát triển, mới tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa, những phạm trù như văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Được biết trong thời gian tới, Chính phủ Việt Nam đang có chủ trương nâng cao trình độ nhận thức cho người dân và doanh nghiệp về các vấn đề có liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đang khuyến cáo các trường Đại học và Cao đẳng cần đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp với trình độ chung trên thế giới. Có được những yếu tố thuận lợi này và truyền thống đạo đức lâu đời của người Việt Nam, hy vọng là trong thời gian tới, nhận thức của người Việt Nam về đạo đức kinh doanh sẽ nhanh chóng được nâng cao, góp phần duy trì sự phát triển bền vững và nâng cao chất lượng đời sống cho người dân Việt Nam.
KẾT LUẬN (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Tóm lại, chúng ta có thể thấy vai trò quan trọng của đạo đức kinh doanh đối với các cá nhân, đối với doanh nghiệp và đối với xã hội và sự vững mạnh của nền kinh tế quốc gia nói chung. Các cổ đông muốn đầu tư vào các doanh nghiệp có chương trình đạo đức hiệu quả, quan tâm đến xã hội và có danh tiếng tốt. Các nhân viên thích làm việc trong một công ty mà họ có thể tin tưởng được và khách hàng đánh giá cao về tính liêm chính trong các mối quan hệ kinh doanh. Môi trường đạo đức của tổ chức vững mạnh sẽ đem lại niềm tin cho khách hàng và nhân viên, sự tân tâm của nhân viên và sự hài lòng của khách hàng, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tư cách công dân của doanh nghiệp cũng có mối quan hệ tích cực với lợi nhuận mang lại của các khoản đầu tư tài sản và tăng doanh thu của doanh nghiệp. Đạo đức kinh doanh còn đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển và thịnh vượng của một quốc gia. Đạo đức kinh doanh nên được tập thể quan tâm khi lập kế hoạch chiến lược như các lĩnh vực kinh doanh khác, như sản xuất tài chính, đào tạo nhân viên, và các mối quan hệ với khách hàng.
Mỗi doanh nghiệp cần xây dựng được một chương trình đạo đức hiệu quả đảm bảo tất cả nhân viên đều hiểu và tuân thủ theo các nguyên tắc đạo đức kinh doanh đưa ra. Doanh nghiệp hướng dẫn mọi thành viên thực hiện, đồng thời thường xuyên kiểm tra, đánh giá chương trình đạo đức, và không ngừng hoàn thiện chương trình đạo đức. Xây dựng và phát triển đạo đức trong doanh nghiệp là cả một quá trình, đòi hỏi sự tận tâm của mọi thành viên trong doanh nghiệp. (Tiểu Luận: Đạo Đức Kinh Doanh Ở Các Doanh Nghiệp Việt Nam)
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://hotrovietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: [email protected]