Thuyết minh về cách làm bánh chưng ngày Tết cực hay và ý nghĩa

Bánh chưng là biểu tượng không thể thiếu trong mỗi dịp lễ Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, thuyết minh về cách làm bánh chưng ngày tết đã trở thành một đề tài quen thuộc được nhiều giáo viên lựa chọn nhằm giúp các em học sinh hiểu hơn về cội nguồn, ý nghĩa cũng như phương thức làm bánh. Bài làm mà khomay3a.com cung cấp dưới đây sẽ giúp các bậc phụ huynh, học sinh cũng như giáo viên bộ môn có thêm tài liệu hữu ích để tham khảo về chủ đề này.

Bánh chưng là biểu tượng không thể thiếu trong mỗi dịp lễ Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, thuyết minh về cách làm bánh chưng ngày tết đã trở thành một đề tài quen thuộc được nhiều giáo viên lựa chọn nhằm giúp các em học sinh hiểu hơn về cội nguồn, ý nghĩa cũng như phương thức làm bánh. Bài làm mà khomay3a.com cung cấp dưới đây sẽ giúp các bậc phụ huynh, học sinh cũng như giáo viên bộ môn có thêm tài liệu hữu ích để tham khảo về chủ đề này.

 

THUYẾT MINH VỀ CÁCH LÀM BÁNH CHƯNG – VĂN MẪU LỚP 8, 9, 10

ĐỀ BÀI:

Thuyết minh về bánh chưng ngày tết 

Dàn ý:

Mở bài: Giới thiệu khái quát về chiếc bánh chưng 

Thân bài:

  • Luận điểm 1: Nêu nguồn gốc của chiếc bánh chưng

Theo sự tích, bánh chưng gắn liền với truyện “Bánh chưng, bánh giầy” và hoàng tử Lang Liêu đời vua Hùng thứ 6. 

Về mặt lịch sử, bánh chưng xanh gắn với nền văn hóa Lạc Việt, được nhắc đến trong Lĩnh Nam chích quái. Đây là loại bánh chính thống và lâu đời của Việt Nam.

Hình dáng: Chiếc bánh chưng vuông vức khác hẳn so với bánh Tét ở một số vùng miền. Bánh vuông tượng trưng cho đất. 

  • Luận điểm 2: Thuyết minh cách làm bánh chưng 

Nguyên liệu gói bánh: đỗ xanh, thịt, mỡ, gạo nếp, tiêu, hành… 

Các công đoạn gói bánh.

Chuẩn bị bếp và luộc bánh.  

Công đoạn ép và bảo quản sau khi bánh chín.

  • Luận điểm 3: Nêu ý nghĩa:

Ý nghĩa về ẩm thực

Tầng nghĩa sâu xa, biểu tượng của chiếc bánh chưng trong mỗi dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam:

– Gia đình quây quần sum vầy

– Là bánh thể hiện lòng biết ơn của con cháu với tổ tiên trong mỗi dịp lễ tế

– Thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc 

– Tượng trưng cho sự sinh sôi phát triển của vạn vật

Ca ngợi ý nghĩa của chiếc bánh chưng trong nền văn minh lúa nước. 

Kết bài: 

Khái quát, khẳng định lại những giá trị to lớn của chiếc bánh chưng  

BÀI LÀM:

Nếu người Hàn Quốc tự hào vì có kim chi, canh bánh gạo với vị cay nồng đặc trưng, người Trung Hoa có món Tổ mang ý nghĩa năm mới tốt đẹp hơn năm cũ thì dịp Tết cổ truyền của người Việt Nam lại không thể thiếu món bánh chưng xanh làm từ gạo nếp dẻo thơm. Đó vừa là biểu tượng của sự đầm ấm, sum vầy, sinh sôi nảy nở của vạn vật, vừa thể hiện được lòng biết ơn của con cháu đối với Tổ Tiên, các bậc vua Hùng có công dựng nước. Và hơn thế nữa, bánh chưng còn có ý nghĩa rất lớn trong  nền văn minh lúa nước của người Việt. 

 

Bánh chưng gắn liền với sự tích “Bánh chưng, bánh dày” và vị hoàng tử Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ 6. Theo đó, sau khi dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con trai. Vừa đúng dịp đầu xuân, vua họp mặt tất cả các vị hoàng tử lại và bảo rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho”. Các vị hoàng tử đua nhau lên rừng, xuống biển những mong tìm kiếm được sơn hào hải vị dâng biếu vua cha. Chỉ riêng có hoàng tử thứ 18 là Tiết Liêu (Lang Liêu) – sống có đức, rất hiểu thảo với cha mẹ – do mẹ mất sớm không có ai chỉ lối nên vô cùng lo lắng. Một hôm, hoàng tử nằm mộng được vị Thần đến bảo “Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành”. Khi Hoàng tử Lang Liêu dâng lên vua cha món bánh chưng, bánh dày, vua ăn thấy ngon lại rất ý nghĩa nên bèn truyền ngôi cho hoàng tử. Cũng kể từ đó,  mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, dân chúng làm bánh Chưng và bánh Giầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.

Về mặt lịch sử, bánh chưng xanh gắn với nền văn hóa Lạc Việt, được nhắc đến trong Lĩnh Nam chích quái. Thời điểm ra đời của chiếc bánh chưng xanh cũng trùng với giai đoạn vừa dẹp xong giặc Ân.  Đây là loại bánh chính thống và lâu đời của Việt Nam.

Bánh chưng xanh có hình dáng vuông vức, phân biệt rạch ròi với bánh Tét dài ở một số vùng miền. Bánh vuông tượng trưng cho đất, những mong năm mới mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi, nảy nở, nhân dân có cuộc sống bình yên, ấm no và hạnh phúc. 

  

Bên ngoài xanh lá dong xanh

Bên trong nếp đỗ mỡ hành hạt tiêu 

Gói nghĩa tình, gói yêu thương

Dẻo thơm từ thuở Lang Liêu tới giờ.

Như vậy, gói bánh chưng không đơn thuần chỉ là gói ghém các nguyên liệu, mà còn là gói nghĩa tình, gói cả yêu thương giữa con người với con người. 

Nguyên liệu làm bánh chưng gồm: lá dong, gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn, hành, tiêu… Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc kỹ càng. Lá dong chọn lá xanh đậm, có gân chắc, lá to không bị rách hoặc héo rũ, sau đó đem rửa sạch, phơi qua nắng để lá héo sẽ dễ gói hơn. Gạo nếp phải chọn loại thơm và dẻo, hạt đều đặn, đem vo qua nước rồi ngâm 2 – 3 tiếng để hạt gạo nở đều, khi luộc sẽ nhanh chín hơn. Đậu xanh xát bỏ vỏ, đun nhừ rồi vo thành từng viên tròn để làm nhân. Riêng với thịt lợn, người làm bánh chọn miếng thịt có cả mỡ và nạc, thường là thịt ba chỉ để đảm bảo độ ngầy ngậy, không bị quá khô hoặc quá ngán. Ngoài ra cần phải chuẩn bị thêm lạt giang chẻ mong, ngâm qua nước để buộc bên ngoài bánh. Tất cả các nguyên liệu này chính là biểu tượng của nền văn minh lúa nước, vùng có khí hậu quanh năm nóng ẩm, nhiệt đới mang tính truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc. 

 

Khó nhất trong cách làm bánh chưng chính là khâu gói bánh. Người gói đòi hỏi phải có tay nghề, sự tỉ mỉ, kiên trì và khéo léo thì bánh mới vuông vức, đều đặn, đẹp và chắc tay. Đầu tiên, xếp 2 tàu lá dong úp xuống, hơi chồng lên nhau. Sau đó, xếp tiếp 2 lá mặt ngửa theo hình chữ thập lên trên rồi đặt khuôn gói vào chính giữa. Gói lần lượt các mặt lá xung quanh thành hình vuông của khuôn rồi đặt một khuôn mới, vuông và to hơn phía ngoài. Đến đây, mở lá lấy khuôn ở phía trong ra, rải lần lượt nguyên liệu vào bên trong, gạo nếp thì phủ kín 2 mặt lại, dàn đều và gói cẩn thận. Khâu gói bánh đòi hỏi phải chắc tay, cẩn thận buộc từng dây lạt để bánh không bị méo mó, không bị vỡ khi luôn chín. Khó là khó vậy nhưng lạ thay, cả già trẻ, gái trai đều quây quần, háo hức được gói bánh. 

 

Luộc bánh chưng phải luộc bếp củi, thời gian từ 8 – 10 tiếng thì bánh mới mềm, thơm ngon. Trong quá trình luộc phải luôn canh để lửa đều, vừa phải trong nồi có đủ nước. Được một nửa thời gian thì lật bánh, đổi vị trí của những chiếc bánh để không bị đập nát hoặc nhão. Đến khi bánh chín, vớt ra, xếp thành từng lớp rồi dùng vật nặng nén lại nhưng vậy, bánh sẽ rền, mịn, phẳng và chắc hơn.

Cũng bởi thời gian luộc lâu và cần sự tỉ mỉ khi luộc nên ngồi trông nồi bánh chưng chiều 30 tết cũng trở thành một nét đẹp trong văn hóa của người Việt, đặc biệt là tuổi thơ của những đứa trẻ. Khi bánh gần chín, mùi thơm của gạo nếp quyện với lá xong, thịt mỡ, dưa hành… khiến chúng đứng ngồi không yên, háo hức ngóng những chiếc bánh thơm ngon ra lò. Bởi thế mà khi lớn lên đi xa xứ mưu sinh, mỗi độ Tết đến, dù đang ở đâu, lòng những người con luôn hướng về quê nhà, về nguồn cội. 

 

Bánh chưng xanh của người Việt trở thành món ẩm thực truyền thống không thể thiếu trong ngày Tết. Nhiều người Việt ở nước ngoài không có điều kiện về quê ăn tết cũng đã ngồi bên nhau, xúng xính chuẩn bị nguyên liệu và gói bánh. Bởi vậy mới nói, từ khâu gói bánh đến luộc bánh chưng đều thể hiện sự sum vầy, đầm ấm: gói bánh gói cả yêu thương. 

Bánh chưng dâng lên ông bà tổ tiên, có mặt trong dịp dỗ Tổ mùng 10 tháng 3 và nhiều dịp tế tế quan trọng. Đó là lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên, gợi nhớ truyền thống dựng nước giữ nước của những bậc anh hùng dân tộc. Bánh chưng có thể có ở nhiều nơi nhưng món bánh chưng xanh vuông vức gói lá dong chỉ có ở Việt Nam, thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc.

Ở một tầng nghĩa cao hơn nữa, bánh chưng còn gắn liền với nền văn minh lúa nước của người Việt. Từ ngàn đời nay, cây lúa đã gắn bó và trở thành cây lương thực quan trọng. Lúa mang cả ý nghĩa vật chất và tinh thần, thể hiện sự no đủ, bởi vật mà vạn vật trong trời đất không có gì quý bằng gạo. Vì vậy mà nguyên liệu chính của bánh chưng là hạt gạo. Gói bánh chưng là ghém một nền văn hóa, văn minh lúa nước truyền thống lâu đời của người Việt, là gửi gắm mong muốn, hy vọng của người dân về một năm mới an khang thịnh vượng, vạn vật sinh sôi, mùa màng bội thu.

 

Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ

Cây nêu ngày Tết bánh chưng xanh 

Khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần càng no đủ, tươm tất, mâm cỗ ngày Tết của người Việt càng trở nên phong phú, hấp dẫn. Thế nhưng, bánh chưng vẫn là một món bánh cổ truyền không thể thiếu. Hơn cả một món ăn thông thường, bánh chưng là bản sắc văn hóa, là nét đẹp ẩm thực, là văn minh lâu đời của dân tộc Việt Nam. Đó còn là tình yêu thương, gắn kết giữa cho người với con người được truyền tụng từ quá khứ đến hiện tại và mãi mãi về sau.