Thuyết Minh Về Bánh Chưng Ngày Tết – Văn Mẫu Lớp 8

Nội dung bài viết

  • 1

    Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình

  • 2

    Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 2

  • 3

    Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 3

  • 4

    Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 4

  • 5

    Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 5

Mục lục

  • Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình
  • Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 2
  • Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 3
  • Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 4
  • Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 5

Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Bình

Đất nước với nhiều truyền thống văn hóa, những nét đẹp chỉ có riêng ở Việt Nam. Từ thời vua Hùng muốn nhường lại ngôi vua của mình cho các con nên đã truyền cho hoàng tử nào dâng lên vua những vật có ý nghĩa và lạ nhất thì có thể thay vua trị vị đất nước. Khi ấy Lang Liêu đã làm ra hai loại bánh trong đó có bánh chưng tượng trưng cho trái đất. Và khi bánh chưng có từ ngày đó, loại bánh này có ý nghĩa gì mà con người Việt Nam chúng ta lại coi nó là một trong ba đồ sử dụng trong ngày tết.

Cho đến nay cũng như mãi mãi về sau, bánh chưng luôn có sự hiện diện trong đời sống văn hoá ẩm thực và văn hoá tâm linh của người Việt Nam. Có thể nói bánh chưng là một sản vật vừa có sức trường tồn mà lại rất gần gũi với đời sống thường nhật của người Việt Nam trong cả hai lĩnh vực: Văn hoá ẩm thực và văn hoá tâm linh.

Nguyên liệu để làm ra chiếc bánh chưng được lấy từ gạo nếp, thịt và đỗ còn vỏ ngoài được lấy từ lá dong. Người ta thường chọn gạo nếp cái hoa vàng để làm vỏ ngoài của bánh, đây là loại gạo có hạt bóng mẩy và đều nhau, khi chín thì vừa thơm vừa dẻo. Còn đối với thịt lợn, để làm nhân bánh thì việc chọn được những miếng thịt ba chỉ sẽ khiến cho chiếc bánh ngon hơn bội phần so với các loại thít khác. Thịt sau khi cắt miếng to bản sẽ được ướp với một chút hạt tiêu để chiếc bánh có chút vị cay đặc chưng vốn có. Riêng với đỗ, người cẩn thận thì đem luộc xong giã và nắm chặt thành từng nắm nhỏ, với những ai bận rộn thì thường lấy luôn đỗ sống để làm nhân. Lá dong trước khi gói bánh phải được rửa sạch sẽ và quấn quanh chiếc cột để phơi lên, sau khi lá đã ráo nước thì tháo xuống và dùng dao tước bớt phần sống lá ở phía sau sau cho lưng của lá không còn nhô cao.

Sau khi trải qua công đoạn chuẩn bị nguyên liệu thì người gói bánh sẽ rải những tấm lót sạch, rộng xuống nền nhà và tiến hành gói bánh. Có hai cách để gói, một là dùng khuôn, hai là dùng tay. Ưu điểm của dùng khuôn chính là giúp cho chiếc bánh trở nên vuông vắn hơn còn dùng tay sẽ làm bánh được gói chắc chắn hơn. Tuy nhiên, dù dùng cách nào thì công đoạn đầu tiên của gói bánh cũng là trải lá ra một khoảng rộng, đổ gạo vào sau đó cho một nắm đỗ chín hoặc nửa bát đỗ sống lên, gắp một đến hai miếng thịt đặt lên giữa đỗ, tiếp tục cho số lượng đỗ giống như bàn đầu đè lên miếng thịt, cuối cùng là đổ gạo nếp lên và gói lá vào. Việc gói bánh rất quan trọng, nếu sơ ý có thể khiến chiếc bánh bị phèo gạo ra khi luộc. Để hạn chế việc này, người gói cần phải thật chắc tay trong lúc uốn lá để tạo thành hình vuông.

Khi những chiếc bánh đã được hoàn thành sẽ được xếp vào nồi lớn và bắc lên bếp đun, thời gian nấu bánh thường rơi vào khoảng từ 10 đến 12 giờ, tùy vào từng loại gạo. Bánh chín sẽ được vớt ra và nén bằng vật nặng, sau đó mới cất đi để ăn dần.

Bánh chưng trong ngày tết có những ý nghĩa rất lớn. Tuy khoa học đã chứng minh rằng trái đất không phải là hình vuông như người xưa trong truyền thuyết nói nhưng qua bánh chưng ấy người Việt ta bày tỏ những tấm lòng nhớ về người xưa tổ tiên ông bà đã sáng tạo và để lại loại bánh có ý nghĩa ấy. Không những thế nó được sử dụng trong ngày tết vì nó có sự đầy đủ của nhiều thứ nguyên liệu và có vị ngon hấp dẫn. Chính vì thế mà nó không thể nào vắng mặt trong ngày tết truyền thống của nhân dân ta.

Bánh chưng còn để thắp hương thờ cúng ông bà tổ tiên trong những ngày tết. Nhân dân ta sẽ chọn những chiếc bánh đẹp nhất để có thể đem lên bày trên bàn thơ ông bà với những món hoa quả bánh kẹo trên đó.

Bánh chưng còn làm cho mọi người sum họp gần gũi nhau hơn và có một cái tết ấm lòng không. Anh chị em quây quần bên nhau cùng gói bánh cùng nói chuyện cười vui tươi chào mừng năm mới đến. Không kể lúc luộc bánh tất cả cùng ngồi trông bánh bên ngọn lửa hồng.

Đặc biệt bánh ăn nóng rất ngon tuy nhiên khi nó nguội rồi nhân dân ta còn có thể cắt chúng ra từng miếng nhỏ đem rán lên ăn rất là ngon và thơm. Những người không ăn được mở thì cũng có thể ăn được bởi vì khi ninh nhừ như thế rồi thì thịt mở không còn ngáy như khi luộc bình thường nữa mà nó rất dễ ăn.

Một nét văn hóa cao đẹp của người Việt, nó cần được bảo tồn và gìn giữ. Mỗi người dân luôn tự hào vì những truyền thống cao đẹp ấy.

Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 2

Bánh chưng là một sản vật xuất hiện từ trước thời văn minh lúa nước của người Việt và cho đến nay cũng như mãi mãi về sau, bánh chưng luôn có sự hiện diện trong đời sống văn hoá ẩm thực và văn hoá tâm linh của người Việt Nam. Có thể nói bánh chưng là một sản vật vừa có sức trường tồn mà lại rất gần gũi với đời sống thường nhật của người Việt Nam trong cả hai lĩnh vực: Văn hoá ẩm thực và văn hoá tâm linh.

Phong bánh chưng ngày Tết được bày trên mâm cúng ông bà, ông vải là một mỹ tục, được truyền lại từ thời các Vua Hùng trong truyền thuyết Lang Liêu, một trong những người con của Vua Hùng đã dùng lúa nếp làm nên những chiếc bánh chưng, bánh dầy thay cho các thứ sơn hào, hải vị dâng tiến vua cha. Có lẽ cũng từ đó mới xuất hiện hai từ ngọc thực”. Nó là biểu trưng cho lòng thành kính đến mộc mạc của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên mà không có thứ ngọc nào sánh nổi. Nó là thứ ngọc” đã nuôi sống con người, nuôi sống dân tộc từ thuở hồng hoang của lịch sử cho tới muôn đời sau.

Trong những ngày tết Nguyên Đán, không có gia đình Việt Nam nào lại thiếu vắng những chiếc bánh chưng xanh trên bàn thờ, trên mâm cúng ông bà, ông vải. Bánh chưng có thể được tự làm ra từ khi gieo hạt, trồng cấy, thu hái, xay giã, gói luộc đối với người nông dân ở miền xuôi, miền ngược, miền Bắc, miền Nam. Và, bánh chưng cũng có thể được mua như mua các loại hàng hoá khác đối với những người dân các vùng đô thị trong nước và ở nước ngoài. Chiếc bánh chưng ngày tết dù tự túc, tự sản hay được mua bán như những thứ hàng hoá khác nhưng đều có chung một điểm: Đó là sản vật không thể thiếu để dâng cúng lên cha mẹ, ông bà, tổ tiên trong ngày Tết. Một nét đẹp lâu đời nhất, truyền thống nhất trong văn hoá tâm linh của người Việt Nam.

Xem thêm:

 

Thuyết minh về cây bút chì – Văn mẫu lớp 8

Ngày nay, trong sản xuất nông nghiệp với xu thế chuyển đổi nông sản thành hàng hoá, việc trồng cấy đại trà và tạo ra những vùng nguyên liệu chuyên canh là một xu thế tất yếu. Tuy vậy, vẫn còn không ít những gia đình nông dân vẫn còn lưu giữ một tập quán lâu đời: Đó là việc dành riêng một một khoảnh, một thửa đất để trồng cấy các giống nếp quý, chỉ dùng cho việc cúng lễ hay những ngày trọng trong năm. Từ việc chọn giống như giống nếp cái hoa vàng, giống nếp hương …, lúa gặt về được nhặt từng bông, lựa những bông có hạt chắc, mẩy đều rồi buộc thành từng túm nhỏ treo trên sào cốt tránh lẫn các loại lúa khác. Đến mùa gieo mạ mới đem xuống dùng đĩa xứ, hoặc vỏ con trai cạo từng túm chứ không đập. Quá trình chăm sóc luôn giữ đủ nước, vừa phân và xa các khu ruộng trồng các loại lúa tẻ để tránh lai tạp. Khi gặt về cũng lựa từng bông và bảo quản bằng các túm nhỏ trên sào tre. Giáp tết hay những ngày trọng mới đem suột và xay giã làm gạo để gói bánh chưng hoặc đồ xôi. Những việc làm cẩn thận, cầu kỳ đến tỉ mẩn này không chỉ thể hiện sự sành ăn” vì giống nếp quý lại không lẫn tẻ, không bị lai tạp nên khi gói luộc, bánh chưng sẽ dẻo, rền và thơm hương nếp cùng lá dong xanh mà còn thể hiện sự tôn kính đối với các thế hệ tiền nhân.

Trong cái tết Mậu Thân, trước tổng tiến công các má, các chị đã ngày đêm gói rất nhiều đòn bánh tét cho bộ đội ăn tết trước và đem theo làm lương ăn trong những ngày Tết đánh giặc. Hình ảnh anh bộ đội giải phóng với vành mũ tai bèo, bên hông cột gọn gàng gói bộc phá với một đòn bánh tét mãi mãi là bức phù điêu của những mùa xuân đại thắng của dân tộc Việt Nam. Trước đó hơn hai trăm năm ( Bính Ngọ – 1786 ), bánh chưng ( bánh tét ) cũng theo bước chân thần tốc của đoàn quân của người anh hùng áo vải Tây Sơn – Nguyễn Huệ phò Lê diệt Trịnh. Bánh chưng theo suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Bánh chưng có mặt trong mọi hoạt động xã hội, tín ngưỡng. Bánh chưng làm dẻo mềm hơn câu ca dao, gắn kết quá khứ với hiện tại và trong xu thế hội nhập, bánh chưng Việt Nam trong những ngày tết cổ truyền của dân tộc lại có mặt trên khắp năm châu. Bánh chưng Việt Nam trong vai trò sứ giả, mang thông điệp của một Việt Nam đổi mới, mong muốn hoà bình, hợp tác, hữu nghị với thế giới, cùng hướng tới tương lai …

Ngày tết, ăn một miếng bánh chưng sau khi cúng lễ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, dư vị thời gian, không gian huyền thoại của lịch sử như cùng quy tụ trong màu xanh của bánh, mùi thơm thảo của hạt nếp tiền nhân để cùng suy ngẫm về ý nghĩa triết học và giá trị nhân văn của các truyền thuyết, các sự tích về bánh chưng của người Việt. Đó cũng là một cách di dưỡng tinh thần, làm giàu thêm bản sắc văn hoá tâm linh và văn hoá ẩm thực Việt Nam.

Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 3

Ngay sau khi phá xong giặc Ân, vua Hùng muốn truyền ngôi cho con.Vào dịp đầu xuân, vua mở hội các con mà bảo rằng: ”Con nào tìm được thức ăn ngon lành để bày cỗ và có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho”. Các Lang (các người con của vua Hùng) đã đua nhau làm ra những món lạ từ những vật liệu sơn hào hải vị quý hiếm khắp nơi.

Riêng người con trai thứ 18 của vua Hùng là Lang Liêu tính tình thuần hậu, chí hiếu, làm ra bánh chưng, bánh dầy. Kết quả được vua cha chọn nhường ngôi. Cái giỏi và cái tâm của Lang Liêu là biết sử dụng những nguyên liệu thông thường có sẵn như: lá, gạo nếp, đậu xanh, thịt heo… để làm thành món ăn, mà trong đó đã gói ghém cả một nền văn minh nông nghiệp lúa nước, mang ý nghĩa sâu xa để làm vật phẩm cúng tế tổ tiên, đất trời.

Vào các dịp lễ tết ở miền Bắc phổ biến nhất là bánh chưng, bánh dầy. Có người quan niệm bánh chưng hình vuông để tượng trưng cho đất, là âm, dành cho mẹ. Bánh dầy hình tròn để tượng trưng cho trời, là dương dành cho cha.

Ở miền Nam bánh tét được chọn thay thế bánh chưng. Có người giải thích đó là do sự hội nhập nhiều luồng văn hoá khác nhau, đặc biệt là văn hoá Chăm với tín ngưỡng “Phồn Thực”, nên bánh tét có hình tượng như chiếc Linga là biểu tượng của sức sống, sự trường tồn, hùng mạnh… Nhưng có quan niệm khác cho rằng bánh tét thực ra là cái bánh chưng nguyên thủy của người Việt cổ, được bảo lưu tại miền Nam.

Ở miền Trung thì có cả bánh chưng và bánh tét. Từ năm 1802, sau khi đất nước được thống nhất dưới thời Gia Long, bắt đầu có sự kết hợp văn hoá cổ truyền của đất Bắc và văn hoá mới phong phú của vùng đất mới phương Nam. Đặc biệt ở Thừa Thiên Huế, trong nồi bánh tết luôn luôn có 2 loại, vừa bánh chưng vừa bánh tét.

Về thành phần và hình thức của bánh

Để làm bánh chưng dù miền Bắc hay miền Trung thì nguyên liệu vẫn giống nhau, như lá, nếp, đậu xanh, thịt lợn… Bánh chưng miền Bắc có nhiều nhân và lớn. Còn bánh chưng miền Trung thì ít nhân, nhỏ hơn và thường cột một cái xấp một cái ngửa với nhau thành cặp.

Các thành phần của bánh tét truyền thống căn bản vẫn giống bánh chưng. Nhưng về sau có nhiều biến đổi, như có thêm bánh tét ngũ sắc, bánh tét nhân chuối, bánh tét nhân dừa, bánh tét có nhân tôm khô và lạp xưởng… hay có khi là bánh tét không nhân gì cả.

Tập quán và sự kiêng kỵ đối với món bánh ngày tết

Ở miền Bắc, món bánh chưng ngày nay là món hàng quà bán hàng ngày, tuy nhiên bánh chưng vẫn là món ăn nghi lễ trong các ngày lễ hội, giỗ, tết. Ở miền Nam bánh tét ngoài việc cúng tế tổ tiên trong dịp tết,còn dùng làm quà tặng biếu bà con thân hữu, thường thì hai cái cột lại với nhau cho có quai xách.

Xem thêm:

 

Bản thông báo về Kế hoạch cắm trại nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 – Văn mẫu lớp 8

Người dân vùng quê ngày tết gói nhiều bánh tét nấu chín, có thể vứt tạm xuống dưới ao, sau vài tháng vớt lên ăn bình thường. Còn ở miền Trung, trong dân gian người ta dùng cả hai loại bánh chưng và bánh tét để cúng tổ tiên, nhưng không dùng bánh tét để làm quà biếu trong những ngày đầu năm, vì tên gọi “đòn bánh tét” nghe như đòn roi là sự trừng phạt.(Trẻ con miền Trung ngày xưa, mỗi khi lỡ ham chơi lêu lổng, bị cha mẹ la rầy kêu về, nghe câu dọa: ”Đi mau về nhà được ăn bánh tét“ thì hồn vía lên mây!

Riêng trong chốn cung đình, chỉ được phép dâng cúng bánh chưng, chứ không được dùng bánh tét làm lễ phẩm dâng cúng trong miếu điện. Do hình dáng và tên gọi của bánh tét bị cho là không tao nhã.

Cảm nhận của người nước ngoài và người Việt xa quê

Một trong những nước cùng chung nền tảng văn minh lúa nước với chúng ta là Nhật Bản. Khi tôi đến Tokyo, vào một số nhà hàng Việt Nam, thấy thực khách người Nhật thích thú thưởng thức những món ăn đặc trưng Việt Nam như phở, chả giò… Đặc biệt, họ còn rất thích thú với món bánh chưng và bánh tét ăn cùng dưa món.

Rồi có dịp đến Paris vào thời gian cuối năm, tôi thấy các siêu thị bán thực phẩm Việt Nam ở quận 13, có bán rất nhiều lá dong, lá chuối, dây lạt, gạo nếp… các thứ để làm bánh tết. Tôi đến thăm một ngôi chùa tại Paris, mới biết các vị sư ở đây có biệt tài làm bánh chưng, bánh tét chay và dưa món rất ngon. Cứ độ đầu tháng chạp thì nhà chùa đã chuẩn bị sấy các loại rau củ để làm dưa món, nguyên liệu để làm bánh, nhưng vẫn không đủ cung cấp cho bà con Việt kiều ở xa quê.

Tiểu bang California ở Mỹ là nơi có nhiều người Việt sinh sống. Vào đầu năm ngoái, Việt kiều ở đây rất vui khi được Ban Y tế California nhận định: ”Bánh chưng là một loại văn hoá ẩm thực ngàn xưa của người Việt Nam”, nên Ban này đã thông qua dự luật AB-2214 về việc cho phép bán bánh chưng.

Khi đến Mỹ, tôi đã gặp nhiều bà mẹ Việt Nam hiện đang sinh sống ở đây. Họ cảm thấy trống vắng và quay quắt nhớ quê hương vào dịp xuân về. Vì ngày Tết Việt Nam thường rơi vào những ngày con cháu bận đi làm, không thể đoàn tụ đông vui, nên hễ có dịp sum họp gia đình như lễ tạ ơn, lễ giáng sinh… thì các bà mẹ xa quê xem đó là ngày Tết của mình. Vào những dịp như vậy thì các bà chuẩn bị làm bánh tét, bánh chưng.

Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 4

Bánh chưng từ lâu nay đã là một biểu tượng không thể thiếu trong mỗi dịp Tết đến xuân về. Từ xa xưa đến nay, mỗi dịp Tết đến thì người người nhà nhà lại chuẩn bị những nồi bánh chưng thật to để đón Tết. Bởi trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam thì bánh chưng còn là một món ăn mang ý nghĩa sum vầy, mang ý nghĩa đoàn viên thật bình dị nhưng cũng thật ấm áp.

Từ xa xưa, nhân dân ta vẫn thường lưu truyền rằng bánh chưng trong ngày Tết đã có từ rất lâu rồi. Mọi người vẫn luôn tin rằng bánh chưng, bánh giầy đã có từ thời vua Hùng đời thứ 6, và cho đến tận ngày nay thì bánh chưng đã trở thành một biểu tượng không thể thiếu của ngày Tết truyền thống tại Việt Nam. Người đời vẫn luôn tin rằng bánh chưng chính là một minh chứng rõ ràng nhất cho sự tròn đầy của trời đất, và là minh chứng cho sự sum vầy của gia đình sau thời gian cả năm trời làm việc tất bật, vội vã.

Dù cho có là ở miền Bắc, miền Trung hay miền Nam thì bánh chưng vẫn luôn là một món ăn không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền. Cũng có thể nói đây chính là món ăn được mọi người mong chờ nhiều nhất, bởi vì ngày Tết mới đúng là ngày để thưởng thức bánh chưng một cách ngon và ấm áp nhất.

Về nguyên liệu để tạo thành, bánh chưng được làm nên từ những thứ rất đơn giản, gần gũi với mọi người và dễ chuẩn bị. Kết hợp với những đôi tay khéo léo của người gói bánh. Thành phần chính của bánh chứng chủ yếu là gạo nếp, là lá dong, là thịt, là đậu xanh luộc chín sau đó giã nhỏ. Ngoài ra còn là những gia vị khác như: muối, bột canh, hạt tiêu, nước mắm khi tẩm ướp nhân của bánh… Mỗi một nguyên liệu đều được lựa chọn thật cẩn thận, kỹ lưỡng để đảm bảo tạo nên được món ăn ngon, đậm đà nhất.

Phần gạo nếp thì người ta sẽ chọn những hạt to tròn lẳn, và không bị mốc, để khi nấu chín lên sẽ ngửi thấy ngay mùi thơm lừng của nếp. Đậu xanh thì chọn những loại đậu có màu vàng đẹp, sau đó nấu nhừ lên và giã nhuyễn thành bột để làm nhân. Về thịt, thông thường ta sẽ chọn loại thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, cùng trộn với tiêu xay nhỏ, hành băm nhuyễn và ướp thêm một số loại gia vị khác cho nhân có vị đậm đà hơn.

Một nguyên liệu khác cũng vô cùng quan trọng, đó chính là lá dong dùng để gói bánh. Tuy nhiên, ở một số vùng khác thì người ta thường dùng lá chuối để gói bánh, thế nhưng phổ biến nhất vẫn là dùng những chiếc lá dong.

Lá dong gói bánh cần có màu xanh đậm, với gân chắc, không rách nát hoặc bị héo. Hoặc để tránh lãng phí nếu những chiếc lá bị rách, thì người ta có thể dùng để lót bên trong chiếc lá lành để gói. Lá dong được rửa thật sạch, cắt bỏ phần cuống đi bởi vì lá dong sạch mới đảm bảo được vệ sinh cũng như tạo được mùi thơm của bánh sau khi nấu chín.

Sau công đoạn chuẩn bị nguyên liệu đã hoàn tất, thì theo sẽ đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng đòi hỏi rất nhiều sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và đôi bàn tay khéo léo để có thể tạo nên chiếc bánh vuông vắn cúng viếng ông bà tổ tiên.

Tuy vậy, để có thể gói bằng tay mà cho ra hình hài vuông vức là điều không phải ai cũng có thể làm được. Có rất nhiều người cần phải sử dụng tới những chiếc khuôn vuông để gói bánh. Chỉ cần gấp 4 góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được. Bao bọc xung quanh nào nhân đậu, nhân thịt là những lớp gạo nếp dày. Tiếp đến là chuẩn bị những dây nạt để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.

Công đoạn luộc bánh vẫn luôn được xem là khâu vô cùng quan trọng. Thông thường mọi người hay luộc bánh chưng bằng củi khô, trong một nồi to, xếp bánh ngay ngắn vào và đổ đầy nước, luộc trong khoảng thời gian từ 8 cho tới 12 tiếng. Thời gian lâu như thế là để đảm bảo bánh có thể chín đều và dẻo. Nước trong nồi bắt đầu sôi, mùi bánh chưng lúc này bốc lên nghi ngút mang theo hương thơm ngào ngạt của bánh. Chính những lúc thức đêm trông nồi bánh chưng ấy, đã giúp mọi người bắt đầu cảm nhận được cái không khí Tết đang bao trùm khắp chốn.

Xem thêm:

 

Thuyết minh về cây bút bi và bút máy

Bánh chưng sau khi đã luộc chín sẽ được mang ra đặt lên những tấm gỗ phẳng, sau đó mọi người sẽ dùng một tấm gỗ khác đặt lên những chiếc bánh đó để ép bánh. Điều này nhằm giúp bánh sẽ được ngon hơn, giữ được lâu hơn và loại bỏ bớt nước trong bánh.

Đối với những mâm cơm trong ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều không thể thiếu. Cũng như trên mâm thờ ngày tết, những cặp bánh chưng cúng tổ tiên đã trở thành phong tục được lưu truyền từ bao đời nay qua các thế hệ. Bánh chưng là tượng trưng cho sự trọn vẹn của đất trơì, là biểu trưng cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người.

Trong ngày Tết cũng có rất nhiều người lấy bánh chưng làm quà biếu, đây cũng chính là một món quà giàu ý nghĩa, tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy.

Cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, từng nồi bánh chưng bốc khói nghi ngút chính là báo hiệu cho sự đoàn viên ấm áp của gia đình. Bánh chưng là một biểu tượng của ngày Tết mà không có bất cứ một loại bánh nào có thể thay thế điều đó được. Bởi đây từ lâu đã là một truyền thống, đã là một nét đẹp trong văn hóa của con người Việt Nam, cần được gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay hay cả ngày mai nữa.

Thuyết minh về bánh chưng ngày Tết – Bài làm 5

Dân tộc nào cũng có thức ăn truyền thống. Song chưa thấy dân tộc nào có một thức ăn vừa độc đáo, vừa ngon lành, vừa bổ, vừa gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời, lại vừa có nhiều ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân sinh như bánh chưng, bánh dầy của Việt Nam.

Bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng trái Đất, âm. Bánh dầy hình tròn, màu trắng, tượng trưng Trời, dương, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, Biện chứng Đông Phương nói chung và triết lý Vuông Tròn của Việt Nam nói riêng.

Bánh chưng âm giành cho Mẹ, bánh dầy dương giành cho Cha. Bánh chưng bánh dầy là thức ăn trang trọng, cao quí nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ.

Theo truyền thuyết, bánh chưng bánh dầy có từ thời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân.Vua muốn truyền ngôi cho con, nhân dịp đầu xuân, mới hội các con mà bảo rằng: ”Con nào tìm được thức ngon lành để bày cỗ có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho”.

Các con trai đua nhau kiếm của con vật lạ, hy vọng được làm vua. Người con trai thứ mười tám của Hùng Vương thứ 6 là Lang Lèo (tên chữ gọi là Tiết Liêu), tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm, không có người mẹ chỉ vẽ cho, nên rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy Thần Đèn bảo: ”Vật trong trời đất không có gì quí bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”.

Lang Lèo (sau có người gọi Lang Liêu) tỉnh dậy, mừng rỡ làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp, đậu xanh thật tốt, thịt lợn (heo) ba rọi dày thật tươi.

Đến hẹn, các lang (con vua) đều đem cỗ tới, đủ cả sơn hào hải vị. Lang Lèo chỉ có bánh Dầy bánh Chưng. Vua lấy làm lạ hỏi, ông đem thần mộng tâu lên. Vua nếm bánh, thấy ngon, lại khen có ý nghĩa hay, bèn truyền ngôi cho Lang Lèo, tức đời vua Hùng Vương thứ 7.

Từ đó, cứ đến Têt nguyên đán hay các đám cưới, đám tang, dân gian bắt chước làm theo, sau thành tục lệ để cúng Tổ tiên, cúng Trời Đất.

Bánh chưng độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn ở những vật liệu và cách gói, cách nấu. Lúa gạo thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước, nhiệt đới, nóng và ẩm, được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam hay Đông Nam Á. Người Trung Hoa ưa chế biến từ bột mì hơn; người Ấn Độ thì ưa chế biến từ kê…

Thịt lợn hay heo được coi là lành nhất, nên các bệnh viện ngày nay thường chỉ sử dụng lọai thịt heo chứ không dùng thịt bò hay thịt gà là thức ăn chính cho bệnh nhân. Người Việt thích thịt luộc hay nấu. Đậu xanh vừa ngon lành vừa bổ dưỡng. Bánh chưng như thế rất nhiều chất, đặc trưng của các món ăn Việt Nam.

Độc đáo hơn nữa, khi nấu trong một thời gian khá dài thường trên 10 tiếng, phải để lửa râm râm, bánh mới ngon. Nấu bằng lò gas, tuy nhanh, nóng quá cũng sẽ không ngon. Vì được gói bằng lá dong, bánh chưng vừa xanh vừa đẹp, thơm hơn lá chuối. Phải gói thật kín, không cho nước vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chật, chắc; gói lỏng tay, ăn không ngon. Song nếu chắc quá, bánh cũng không ngon.

Tuy gọi là luộc (người Việt Nam thích luộc, người Trung Quốc thích quay), song vì nước không tiếp xúc với vật liệu được luộc, nên lại là hình thức hấp hay chưng (chưng cách thủy), khiến giữ nguyên được chất ngọt của gạo, thịt, đậu!

Có lẽ vì cách chế biến bằng chưng, nên mới gọi là bánh chưng. Vì thời gian chưng lâu nên các hạt gạo mềm nhừ quyện lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta đồ”, khi hạt gạo nhừ quyện vào nhau như thế, người ta gọi bánh chưng rền”. Vì nấu lâu như thế, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới ngon; chỉ thịt nạc, nhân bánh sẽ khô), gạo, đậu đều nhừ. Cũng vì thời gian chưng lâu, khiến các chất như thịt, gạo đậu nhừ, có đủ thời gian chan hòa, ngấm vào nhau, trở thành hương vị tổng hợp độc đáo, cũng mang một triết lý sống chan hòa, hòa đồng của dân tộc ta.

Cách chế biến như thế rất độc đáo, công phu. Bánh chưng nhất là bánh dầy có thể để lâu được. Khi ăn bánh chưng, người ta có thể chấm với các lọai mật hay với nước mắm thật ngon, giàu chất đạm; cũng có thể ăn thêm với củ hành muối, củ cải dầm hay dưa món… Dân Bắc Ninh xưa thích nấu bánh chưng, nhân vừa thịt vừa đường!

Bánh chưng, bánh dầy quả thật là một món ăn độc đáo có một không hai của dân tộc. Bánh chưng là một trong những bằng chứng cụ thể chứng tỏ văn hóa ẩm thực Việt Nam có nhiều tiềm năng khiến Việt Nam trở thành một cường quốc về văn hóa ẩm thực!