Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức? Ví dụ về thực tiễn

Thực tiễn là gì? Thực tiễn có vai trò như thế nào đối với nhận thức? Hãy cùng Luật Minh Khuê tìm hiểu trong bài viết sau đây:

 

1. Thực tiễn là gì?

Có nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau về thực tiễn; nếu chủ nghĩa duy tâm mới chỉ cho rằng thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử xã hội; trong khi đó chủ nghĩa duy vật trước Mác lại cho rằng thực tiễn là một hành động vật chất của con người nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu. Đến tận khi C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa và phát triển sáng tạo những quan điểm và thực tiễn của các nhà triết học trước đó, đưa ra một quan điểm đúng đắn và thực tiễn như sau:

“Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải biên thế giới khách quan”.

Thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng công cụ tác động vào đối tượng vật chất làm cho đối tượng đó thay đổi theo mục đích của mình. Đây là hoạt động đặc trưng của bản chất con ngườ, nói tới thực tiễn là hoạt động có tính tự giác cao của con người, khác hẳn với hoạt động chỉ dựa vào bản năng, thụ động của động vật.  

Không phải mọi hoạt động có mục đích của con người đều là thực tiễn. Hoạt động tư duy, hoạt động nhận thức hay hoạt động nghiên cứu khoa học đều là những hoạt động có mục đích của con người nhưng chỉ là hoạt động tinh thần không phải là thực tiễn. 

 

2. Nhận thức là gì? 

Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo trên cơ sở thực tiễn. Sự nhận thức của con người vừa ý thức, vừa vô thức, vừa cụ thể, vừa trừu tượng và mang tính trực giác. Qua quá trình nhận thức sử dụng tri thức có sẵn và tạo ra tri thức mới. 

 

3. Ví dụ về thực tiễn?

Ví dụ: Người công nhân vệ sinh dùng chổi và hót rác để thu quét những đống rác bên vệ đường làm sạch môi trường; hay hoạt động lao động của người công nhân trong nhà máy, xí nghiệp tác động vào máy móc trên những dây chuyền sản phẩm để tạo ra những sản phẩm đưa ra thị trường phục vụ con người…

Ví dụ: Hoạt động lấy ý kiến cử tri tại địa phương, tiến hành Đại hội Đoàn thanh niên trường học, Hội nghị công đoàn.

 

4. Các hình thức của thực tiễn

Thực tiễn có ba hình thức cơ bản:

Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động có sớm nhất, cơ bản và quan trọng nhất. là hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn. Đây là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào thế giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình. Sản xuất vật chất cũng là cơ sở cho sự tồn tại các hình thức thực tiễn khác cũng như tất cả các hoạt động sống khác của con người.

Ví dụ: Người nông dân dùng máy gặt để thu hoạch lúa trên đồng; người ngư dân dùng lưới để đánh bắt cá trên biển…

Hoạt động chính trị – xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biên, cải tạo, phát triển những thiết chế xã hội, quan hệ chính trị – xã hội thông qua các hoạt động như đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tôc, đấu tranh vì hòa bình, dân chủ với mục đích chung để thúc đẩy xã hội phát triển.

Ví dụ: Nhân dân ta đấu tranh đánh đuổi chế độ thực dân, đế quốc để giành độc lập dân tộc.

Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, những cái không có sẵn trong tự nhiên; gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này có vai trò trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. 

Ví dụ: Con người nghiên cứu cơ chế hoạt động của virut corona để điều chế ra vaccine ngừa Covid -19 tiêm chủng cho con người. 

 

5. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức

  • Vì sao lại nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức? Xuất phát từ sự thật rằng mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với bất kì đối tượng con người nào, ở bất kì trình độ kinh nghiệm hay lý luận đều bắt nguồn từ thực tiễn. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho quá trình nhận thức, cho mọi lý luận. Thông qua những hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới bên ngoài, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người có thể nhận thức được chúng. Con người vốn quan hệ với thế giới bên ngoài bằng thực tiễn chứ không phải bằng lý luận. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người được hình thành và phát triển. Lúc đầu con người thường thu nhận tài liệu một cách chủ quan, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa… để phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng để xây dựng thành khoa học, lý luận. 
  • Thực tiễn còn là mục đích của nhận thức. Bởi lẽ nhận thức dù về vấn đề, khía cạnh hay lĩnh vực nào đi chăng nữa thì cũng phải quy về phục vụ thực tiễn. Do vây, kết quả nhận thức phải hướng dẫn và chỉ đạo thực tiễn. Nếu lý luận, khoa học không vận dụng được để cải tạo thực tiễn thì không có bất cứ ý nghĩa nào. 
  • Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức. Thực tiễn giúp con người nhận thức toàn diện hơn về thế giới. Những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức là kết quả của thực. Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giơi, con người cũng không ngừng biến đổi theo. Từ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức và khám phá thế giới, làm sâu sắc và phong phú vốn tri thức của mình về thế giới xung quanh. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải luôn luôn làm mới nguồn tri thức, biết cách tổng kết kinh nghiệm, khái quảt lý luận để từ đó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Hoạt động thực tiễn của con người cần tới khoa học – từ đó dẫn đến sự ra đời của khoa học. 

Thứ hai, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Quan điểm của triết học Mác – Lênin đã từng cho rằng: “vấn đề tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý. Nhận thức khoa học có tiêu chuẩn logic riêng tuy nhiên chúng không thể thay thế hoàn toàn cho tiêu chuẩn thực tiễn và xét đến cùng nó còn phụ thuộc và tiêu chuẩn thực tiễn. 

Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa tuyệt đối mà cũng vừa tương đối. Tuyệt đối ở đây là bởi thực tiễn chính là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý. Không phải tất cả thực tiễn có thể kiểm nghiệm được chân lý mà còn phải dựa vào thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Tính tương đối của thực tiễn thể hiện ở chỗ thực tiễn không ngừng biến đổi và phát triển. Thực tiễn cũng không tránh khỏi yếu tố chủ quan bởi lẽ thực tiễn cũng là một quá trình và được thực hiện bởi con người. Chính sự biến đổi không ngừng của thực tiễn đã ngăn cản những tri thức của con người biến thành chân lý tuyệt đối cuối cùng. Những tri thức liên tục bị kiểm nghiệm bởi các giai đoạn của thực tiễn có thể thực tiễn trong quá khứ, hiện tại hay thậm chí là tương lai. Để từ đó nhận thức của con người được bổ sung, điều chỉnh và phát triển toàn diện nhất. 

>> Xem thêm Tư duy là gì? Đặc điểm, vai trò và các cách phát triển tư duy mỗi ngày?

Trên đây là những nghiên cứu sưu tầm và tổng hợp về khái niệm của thực tiễn cũng như vai trò của thực tiễn đối với nhận thức của Công ty Luật Minh Khuê. Hy vọng bài viết trên đã cung cấp tới quý bạn đọc những thông tin hữu ích. Trân trọng cảm ơn!