Thành tự trong ứng dụng khoa học, công nghệ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội gắn với xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An – Tin tức – Dân Việt
Thành tự trong ứng dụng khoa học, công nghệ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội gắn với xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An
Chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta đã sớm có định hướng và chỉ đạo đúng đắn về vị trí, vai trò của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời, luôn coi trọng và tạo điều kiện thuận lợi để khoa học công nghệ phát triển. Quan điểm coi khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa được khẳng định và quán triệt trong nhiều văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới. Nghị quyết Đại hội Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh vai trò quan trọng của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đó là “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững”; “Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”.
Nhân giống tảo Spirulina (tảo xoắn) để sản xuất thực phẩm chức năng tại Công ty cổ phần Khoa học công nghệ tảo Việt Nam
Triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo hệ thống pháp luật về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đã được tạo lập và từng bước được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và xu thế hội nhập toàn cầu với nhiệm vụ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cho đến nay, hệ thống pháp luật về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng được hoàn thiện với 8 đạo luật chuyên ngành điều chỉnh các lĩnh vực liên quan đến hoạt động KHCN với nhiều nội dung đổi mới, đột phá đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ kinh tế – xã hội. Đặc biệt, Luật Khoa học và Công nghệ (KHCN) 2013 (thay thế Luật KHCN số 21/2000/QH10 năm 2000) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014 với nhiều nội dung đổi mới căn bản, toàn diện mang tính đột phá trong chính sách của Ðảng và Nhà nước về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong thời kỳ mới. Bên cạnh đó, tại Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển KHCN 2011 – 2020 đã đề cập nhiều giải pháp về cơ chế chính sách để thực hiện các Chương trình, đề án khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia và nâng cao năng lực KHCN quốc gia.
Nhận thức được vai trò của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, trong thời gia quan tỉnh Nghệ An đã tập trung của thể hóa Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với thực tiễn của tỉnh để chỉ đạo, triển khai thực hiện. Cụ thể: Nghị quyết số 106/2013/NQ-HĐND ngày 13/12/2013 của Hội đồng nhân dân tỉnh về một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư các dự án công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Nghệ AN giai đoạn 2013-2020; Nghị quyết số 116/2013/NQ-HĐND ngày 13/12/2013 của HĐND tỉnh về cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư công nghệ mới, đổi mới công nghệ, nghiên cứu, ựng dụng tiến bộ KHCN trên địa bàn tỉnh Nghệ An và nay là Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐND ngày 22/7/2020 của HĐND tỉnh về Quy định một số chính sách hỗ trợ tổ chức, cá nhân đầu tư, đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Nghệ An; Nghị quyết số: 12/2020/NQ-HĐND ngày 13/11/2020 của HĐND tỉnh về Quy định nội dung và mức chi hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2025; Nghị quyết số 14/2017/NQ-HĐND ngày 20/12/2017 của HĐND tỉnh về một số chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An và nay là Nghị quyết số 18/2021/NQ-HĐND ngày 09/12/2021 của HĐND tỉnh ban hành quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022 – 2025; đặc biệt là Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 14/12/2016 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XVIII) về “Phát triển Khoa học và Công nghệ giai đoạn 2016 – 2020, định hương đến 2025”.
Kết quả đạt được nổi bật
Trong thời gian qua, có thể nói công tác nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đã đóng góp đáng kể cho tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần chuyển dịch mô hình tăng trưởng và thăng tiến cao hơn về chuỗi giá trị. Bằng chứng là tỷ trọng đóng góp của KHCN vào tăng trưởng GRDP thông qua chỉ số năng suất tổng hợp – TFP có sự tăng trưởng vượt bậc, từ 27,69% trong giai đoạn 2011 – 2015 lên 41,14% trong giai đoạn 2016-2020, đạt trung bình chung 37,45% trong cả thời kỳ 2011-2020, qua đó cho thấy trình độ công nghệ được cải thiện đáng kể, gia tăng đóng góp trong phát triển kinh tế địa tỉnh. Năm 2019, quy mô GRDP đạt 132.993 tỷ đồng gấp 1,82 lần năm 2013 (73.021 tỷ đồng); năm 2020, quy mô GRDP đạt 144.570 tỷ đồng gấp 1,98 lần năm 2013; năm 2021, quy mô GRDP đạt 155.425 tỷ đồng, gấp 2,13 lần năm 2013. GRDP bình quân đầu người đạt 39,85 triệu đồng vào năm 2019, gấp 1,78 lần so với năm 2013; năm 2021 đạt 45,58 triệu đồng, gấp 1,92 lần so với năm 2013. Quy mô giá trị sản xuất (GTSX) công nghiệp tăng từ 26.080 tỷ đồng năm 2013 lên 67.523 tỷ đồng năm 2019, năm 2020 đạt 69.304 tỷ đồng, đến năm 2021, quy mô giá trị sản xuất công nghiệp đạt 81.750 tỷ đồng, gấp hơn 3,1 lần so với năm 2013, xếp thứ 2 khu vực Bắc Trung Bộ và thứ 26 cả nước đứng thứ 3 khu vực Bắc Trung Bộ. GRDP nông, lâm, thủy sản tăng từ 19.336 tỷ đồng năm 2013 lên 35.563 tỷ đồng năm 2020 và đạt 38.192 tỷ đồng năm 2021, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2014-2020 đạt 4,46% (trong đó, giai đoạn 2014-2019 tăng trưởng 4,37%) và năm 2021 đạt mức tăng trưởng 5,59% đứng đầu khu vực Bắc Trung Bộ. Nghệ An đạt được kết quả trên là đã vận dụng và thực hiến trúng theo phương chậm quản lý và chỉ đạo như:
Nghiên cứu, nhân giống một số cây trồng đặc sản bằng công nghệ mới tại Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công Nghệ Tỉnh
Thứ nhất: Hoạt động KHCN đã có những đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực an ninh, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và ngày càng khẳng định vai trò là động lực thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Các sản phẩm chủ lực của địa phương được quan tâm nhiều hơn trong nghiên cứu, đầu tư, khai thác và phát triển, nhiều sản phẩm đã phát huy giá trị kinh tế cao như sản phẩm cam, chè, mía, dược liệu và sản phẩm từ gỗ rừng trồng, gia súc, gia cầm, các loại hình sản phẩm du lịch biển,… Số lượng các kết quả nghiên cứu, các tiến bộ kỹ thuật được áp dụng và triển khai nhân rộng được tăng lên đạt trên 89,16% ứng dụng và thực tiễn (Theo báo cáo chính trị 658 tỉnh Nghệ An). Nhiều tiến bộ KHCN được chuyển giao, ứng dụng vào sản xuất của doanh nghiệp. Tỷ trọng đóng góp của TFP vào GDP có sự tăng trưởng vượt bậc, từ 27,69% trong giai đoạn 2011-2015 lên 41,14% trong giai đoạn 2016-2020, đạt trung bình chung 37,45% trong cả thời kỳ 2011-2020, qua đó cho thấy trình độ công nghệ được cải thiện đáng kể, gia tăng đóng góp trong phát triển kinh tế địa phương.
Thứ Hai: Hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng KHCN trên địa bàn tỉnh Nghệ An được tiến hành đa dạng trong nhiều lĩnh vực. Đối với lĩnh vực KHCN đã góp phần cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội đột phá, khẳng định sự hình thành và phát triển các dân tộc, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Đối với lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học cơ bản; khoa học nông nghiệp tập trung Ứng dụng thành công nhiều biện pháp kỹ thuật tiên tiến, chuỗi giá trị sản phẩm, tuyển chọn, nhân nhanh và thâm canh các giống có năng suất cao, chất lượng tốt, đẩy mạnh nuôi trồng, nâng cao hiệu quả khai thác và chế biến thuỷ sản, bảo tồn nguồn gen, phát triển các sản phẩm đặc hữu đến nay đã có 159 sản phẩm truyền thống và đặc sản địa phương (84 sản phẩm chế biến và 75 sản phẩm cây trồng, vật nuôi) được tác động về khoa học công nghệ; khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học và công nghệ liên ngành tiếp tục được phát triển, KHCN trong các lĩnh vực này đã hỗ trợ cho các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tiếp nhận, chuyển giao, làm chủ các công nghệ và tiến bộ kỹ thuật mới, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa của tỉnh. Đối với lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe người dân, KHCN đã củng cố, phát triển và hoàn thiện các kỹ thuật cao trong khám và điều trị cho người dân, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, cải thiện sức khỏe người dân.
Anh Phan Văn Linh ở thị trấn Yên Thành sản xuất thành công nhiều loại nấm giống phục vụ nhu cầu trồng nấm trong và ngoài huyện. Ảnh: Thái Dương
Thứ ba: Tiềm lực KHCN của tỉnh Nghệ An được cải thiện rõ rệt. Hoạt động của các tổ chức KHCN có nhiều đổi mới theo cơ chế tự chủ, ngày càng có hiệu quả, đóng góp cho phát triển KTXH của tỉnh. Trên địa bàn tỉnh hiện có 65 tổ chức có đăng ký hoạt đồng KHCN. Tổng nhân lực KHCN hiện có 63.978 người có trình độ đại học trở lên tăng 29,6% so với năm 2017, đạt 190 người/1 vặn dân (tính đến năm 2020, tỉnh Nghệ An có 3.365.198 dân), Trong đó: Trình độ tiến sỹ là 421 người, chiếm 0,66% tổng số đội ngũ trí thức; Trình độ thạc sỹ là 4989 người, chiếm 7,8% tổng số đội ngũ trí thức; Trình độ đại học là 58.568 người, chiếm 91,54% tổng số đội ngũ trí thức; Giáo sư là 7 người, chiếm 0,01% tổng số đội ngũ trí thức; Phó giáo sư là 83 người, chiếm 0,13% tổng số đội ngũ trí thức, nhân lực chất lượng cao tập trung chủ yếu lĩnh vực Giáo dục Đào tạo và Y tế. Số lượng doanh nghiệp KHCN tiếp tục tăng lên. Đội ngũ cán bộ hoạt động KHCN tăng cả về số lượng và chất lượng. Đầu tư cho KHCN tăng bình quân 10%/năm. Cơ sở hạ tầng KHCN được đầu tư xây dựng, trong đó hệ thống các cơ sở thực nghiệm, phòng thí nghiệm, phòng nuôi cấy mô, hệ thống kho lạnh…được nâng cấp đủ năng lực thực hiện các nghiên cứu liên quan đến giống cây trồng, vật nuôi, giống thủy sản; cơ khí, chế tạo; điện tử; hóa sinh. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các tổ chức KHCN như thiết bị, máy móc và năng lực kiểm tra, thử nghiệm của các phòng thí nghiệm trên địa bàn tỉnh được chú trọng đầu tư và nâng cấp.
Thứ tư: Trình độ công nghệ trên địa bàn tỉnh Nghệ An tiếp tục được nâng cao. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm chủ yếu của tỉnh đạt mức khá so với cả nước, tốc độ đổi mới công nghệ/thiết bị của Nghệ An đạt 15%; công nghệ sản xuất các sản phẩm chủ yếu của tỉnh được đầu tư đổi mới công nghệ tiến tiến, hiện đại, công nghệ cao. Đồng thời, thông qua khảo sát các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An, hiện không có doanh nghiệp nào sử dụng công nghệ lạc hậu trên địa bàn tỉnh, 100 doanh nghiệp nông nghiệp có trình độ công nghệ trung bình, tiệm cận mức công nghệ trung bình tiên tiến và 200 doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình tiên tiến, tiệm cận mức công nghệ tiên tiến.
Thứ năm: Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo được tăng cường và cơ bản đáp ứng được so yêu cầu thực tiễn. Hoạt động quản lý công nghệ và sở hữu trí tuệ được tăng cường. Số lượng các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, như áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ, đăng ký mã số, mã vạch, đăng ký bản quyền tác giả tăng cao, góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, tạo ra các sản phẩm mới, bảo hộ sở hữu trí tuệ, xây dựng, quảng bá thương hiệu và từ đó nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp Nghệ An.
Mô hình thâm canh giống lúa QJ1 bằng công nghệ cao ở xã Long Thành (Yên Thành). Ảnh: Thái Dương
Thứ sáu: Công tác truyền thông khoa học và công nghệ được chú trọng, có nhiều đổi mới về hình thức và phương pháp để cung cấp thông tin kịp thời, có chất lượng; xây dựng các chuyên trang, chuyên mục khoa giáo thông qua các kênh truyền thông chính được triển khai rộng rãi. Đồng thời, công tác phát triển thị trường KHCN cũng được chú trọng phát triển, trong đó tỉnh Nghệ An đã tổ chức tham gia Hội chợ công nghệ, thiết bị, nhiều hàng hóa được giới thiệu và chào bán rộng rãi, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh phát triển.
Nông dân xã Đồng Thành (Yên Thành) ứng dụng nông nghiệp công nghệ để trồng cam hàng hóa. Ảnh: Thái Dương
Thứ bảy: Hoạt động sáng tạo và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo KHCN ngày càng được đẩy mạnh, dần trở thành trọng tâm trong phát triển KHCN trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Trong đó, các cơ chế chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo được tích cực thực hiện, các cuộc thi đổi mới sáng tạo được đồng loạt triển khai. Đặc biệt, Nghệ An là địa phương chủ trì Techfest 2018 khu vực Bắc Trung Bộ, thu hút trên 30 doanh nghiệp khởi nghiệp hoạt động hiệu quả trên địa bàn tỉnh; thành lập được 2 quỹ thuần Việt trên địa bàn tỉnh thúc đẩy quá trình khởi nghiệp sáng tạo và đổi mới KHCN trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới, góp phần hiện thực hóa mục tiêu trung tâm đưa Nghệ An trở thành trung tâm KHCN của vùng Bắc Trung Bộ trong giai đoạn tới.
Bên cạnh những thành tựu đạt được KHCN Nghệ An còn một số tồn tại, hạn chế: (1) Chưa có biện pháp hiệu quả thu hút, khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp chủ động đầu tư cho việc đổi mới công nghệ, thiết bị và nâng cao chất lượng sản phẩm; chưa chủ động tìm thị trường đầu ra, cân đối cung – cầu một cách bền vững. Công tác truyền thông chưa được đẩy mạnh, đặc biệt là truyền thông về cơ chế chính sách mới phù hợp với kinh tế thị trường và đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ; việc chia sẻ kinh nghiệm ứng dụng của các mô hình thông qua hội thảo chưa được phổ biến; (2) Tiềm lực KHCN và năng lực sáng tạo chưa được phát huy, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là trong lĩnh vực công nghệ cao. Việc nhân rộng, phát triển các kết quả nghiên cứu từ các đề tài, dự án KHCN có nhiều khó khăn, nguồn kinh phí dành cho phát triển KHCN còn hạn chế. Chưa có nhiều mô hình mang hiệu quả kinh tế cao. Một số mô hình được triển khai thì sau khi không còn cơ chế hỗ trợ khả năng tồn tại khó và ít mô hình phát triển được; (3) Chưa có được giải pháp thỏa đáng liên quan đến quy hoạch, quản lý, phát triển bền vững KHCN và lộ trình cụ thể thúc đẩy các hoạt động dịch vụ KHCN tại địa phương. Hoạt động ứng dụng và phát triển KHCN chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh. Việc ứng dụng KHCN vào sản xuất nông nghiệp chủ yếu mới tập trung vào việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống cây trồng, vật nuôi, chưa có nhiều ứng dụng công nghệ thông tin, tự động hóa sản xuất, công nghệ sinh học, các quy trình canh tác tiên tiến nên năng suất, chất lượng sản phẩm chưa tương xứng với công sức của người lao động; (4) Sự phối hợp, quản lý giữa các ngành chưa đồng bộ làm cho hiệu quả ứng dụng các sản phẩm KHCN hạn chế; một số địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa chưa thực sự quan tâm, chú trọng đến tiêu chuẩn đo lường, chất lượng sản phẩm hàng hóa, sở hữu trí tuệ, xây dựng thương hiệu sản phẩm,… Việc đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp ở nhiều địa phương còn chậm, chất lượng sản phẩm còn thấp, khả năng cạnh tranh thị trường còn hạn chế. Khu công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao, công viên công nghệ thông tin chưa được hình thành; chưa có quy định chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao của tỉnh Nghệ An; (5) Kinh phí từ ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ đã được nâng lên nhưng chỉ đạt khoảng 0,3 – 0,4% chi ngân sách, thấp hơn nhiều so với quy định của nhà nước (2%), nên đầu tư tiềm lực cho khoa học – công nghệ còn chậm và thiếu đồng bộ.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trên cần có giải pháp căn cơ để đưa khoa học, công nghệ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội gắn với xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Phần tiếp theo: Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo cho phát triển kinh tế – xã hội gắn với xây dựng nông thôn mới tỉnh Nghệ An.
Th.S Hoàng Đình Ngọc