Tệ nạn Xã hội và công tác phòng chống tệ nạn xã hội
TỆ NẠN XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC PHÒNG
TỆ NẠN XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI
1. Tệ nạn xã hội là gì?
Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội tiêu cực, có tính phổ biến, biểu hiện
bằng những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức và gây hậu quả
nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng.
Tệ nạn xã hội là những hành vi sai lệch chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội,
như:
+ Thói hư, tật xấu.
+ Phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu.
+ Nếp sống xa đoạ truỵ lạc, mê tín đồng bóng, bói toán…
Bản chất của tệ nạn xã hội là xấu xa, trái với nếp sống văn minh, trái với đạo
đức, bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa
Tệ nạn xã hội là biểu hiện cụ thể của lối sống thực dụng, coi thường các chuẩn
mực đạo đức, xã hội và pháp luật, làm xói mòn các giá trị đạo đức truyền thống,
thuần phong mỹ tục của dân tộc, phá vỡ tình cảm, hạnh phúc gia đình, phá hoại
nhân cách, phẩm giá con người, ảnh hưởng đến kinh tế, sức khoẻ, năng suất lao
động, làm băng hoại giống nòi dân tộc… là con đường dẫn đến tội phạm.
2. Công tác phòng chống tệ nạn xã hội nhằm mục đích:
– Ngăn ngừa chặn đứng không để cho tệ nạn xã hội phát sinh, phát triển, lan rộng
trên địa bàn,
– Từng bước xoá bỏ dần những nguyên nhân điều kiện của tệ nạn xã hội, góp phần
xây dựng đời sống văn hoá lành mạnh, bảo vệ thuần phong mỹ tục của dân tộc.
– Phát hiện, đấu tranh, xử lý nghiêm minh những hành vi hoạt đông tệ nạn xã hội
góp phần giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
3. Tệ nạn xã hội tác hại như thế nào
– Có tính lây lan nhanh trong xã hội.
– Tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức; đối tượng tham gia rất đa dạng và
phức tạp về thành phần.
– Các đối tượng hoạt động có nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi để
đối phó với lực lượng chức năng và che mắt quần chúng nhân dân thường cấu kết
với nhau thành đường dây, ổ nhóm.
– Tệ nạn xã hội thường có quan hệ chặt chẽ với tội phạm hình sự, các hiện tượng
tiêu cực xã hội khác và có sự chuyển hoá lẫn nhau.
– Địa bàn tập trung hoạt động thường là những nơi tập trung đông người, các khu
công nghiệp, du lịch những nơi trình độ của quần chúng nhân dân còn lạc hậu thấp
kém, và công tác quản lí xã hội còn nhiều sơ hở thiếu sót
4. Như thế nào là công tác phòng chống tệ nạn xã hội
Công tác phòng chống tệ nạn xã hội là quá trình Nhà nước cùng các ngành, các cấp
các đoàn thể tổ chức xã hội và mọi công dân ( trong đó lực lượng công an là nòng
cốt) tiến hành đồng bộ các biện pháp nhằm phát hiện, ngăn chặn, loại trừ các tệ
nạn xã hội.
Đấu tranh loại trừ tệ nạn ra khỏi đời sống xã đòi hỏi phải có sự tham gia của
các cấp, các ngành, của toàn thể xã hội. Trong đó, lực lượng cơ sở có một vai
trò, vị trí rất quan trọng. Đây là lực lượng chủ công, nòng cốt tuyên truyền,
hướng dẫn quần chúng nhân dân và trực tiếp thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, các biện pháp theo chức năng, nhiệm vụ của mình để phòng
chống tệ nạn xã hội trên địa bàn.
5. Chủ trương, quan điểm và các quy định của pháp luật về phòng chống tệ nạn xã
hội của nước ta
Chủ trương, quan điểm
Nghiêm cấm mọi hình thức hoạt động tệ nạn xã hội, xử lí thích đáng những tên
hoạt động chuyên nghiệp, hoạt động có ổ nhóm, những tên cầm đầu hoặc tổ chức lôi
kéo người khác đi vào con đường hoạt động tệ nạn xã hội. Chủ động phòng ngừa
ngăn chặn không để tệ nạn xã hội lây lan phát triển gây tác hại đến đời sống
nhân dân và trật tự xã hội. Giáo dục cải tạo những người mắc tệ nạn xã hội làm
cho họ trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Quan điểm trên được thể hiện trên các mặt cụ thể sau:
– Phòng ngừa là cơ bản, lồng ghép và kết hợp chặt chẽ công tác phòng chống tệ
nạn xã hội với các chương trình phát triển kinh tế-văn hoá-xã hội ở địa
phương.
– Công tác phòng chống tệ nạn xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, phải được
triển khai đồng bộ ở các cấp, các ngành, trong đó lấy phòng chống từ gia đình,
cơ quan, đơn vị, trường học làm cơ sở
– Kết hợp chặt chẽ giữa việc xử lý nghiêm khắc với việc cảm hoá, giáo dục, cải
tạo đối với những đối tượng hoạt động tệ nạn xã hội.
Các quy định của pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội:
Trong quá trình đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội, Nhà nước ta luôn chú trọng
đến việc nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp luật và đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật để điều chỉnh công tác này, như: tội hành nghề mê tín dị đoan; tội
chứa mại dâm; tội môi giới mại dâm; tội mua dâm người chưa thành niên; tội đánh
bạc; tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc; các tội phạm về ma tuý…
6. Các loại tệ nạn xã hội phổ biến và phương pháp phòng chống
6.1. Tệ nạn nghiện ma tuý
Là một loại tệ nạn xã hội mà nạn nhân có thói quen sử dụng chất ma tuý dẫn đến
tình trạng lệ thuộc vào ma tuý khó có thể bỏ được. Nghiện ma tuý gây hậu quả tác
hại lớn cho bản thân người nghiện và cho xã hội.
Hình thức sử dụng ma tuý chủ yếu là hút, hít, tiêm chích thuốc phiện, hêrôin.
Hiện nay, hình thức sử dụng ma tuý tổng hợp, thuốc lắc đang có xu hướng phát
triển mạnh trong thanh niên và học sinh, sinh viên.
Nguyên nhân của tình trạng nghiện ma túy rất đa dạng: do hậu quả của lối sống
đua đòi, lười lao động, ăn chơi với nhu cầu khoái cảm cao chọn ma tuý để mua
vui; do gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, bị lôi kéo, rủ rê, hoặc bị khống
chế…Quản lý học sinh – sinh viên ngoại trú còn có nhiều bất cập; một số học sinh
– sinh viên nghiện ma tuý nhưng không được phát hiện, giúp đỡ kịp thời nên càng
lún sâu vào con đường nghiện ngập.
Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn ma tuý:
Phải từng bước kiềm chế, ngăn chặn không để tệ nạn ma tuý lây lan phát triển,
đặc biệt trong các trường học, trong học sinh – sinh viên và giáo viên. Không để
có thêm học sinh – sinh viên mắc nghiện ma tuý trong các trường học. Phát hiện,
xoá bỏ nguyên nhân, điều kiện hình thành tệ nạn ma tuý. Có các hình thức xử lí
nghiêm minh các đối tượng có liên quan đến ma tuý, các đối tượng hoạt động có
tính chất chuyên nghiệp.
6.2. Tệ nạn mại dâm
Mại dâm là một loại tệ nạn xã hội bao gồm những hành vi nhằm thực hiện các dịch
vụ quan hệ tình dục có tính chất mua bán trên cơ sở một giá trị vật chất nhất
định ngoài phạm vi hôn nhân.
Tệ nạn mại dâm bao gồm các hành vi: bán dâm, mua dâm, chứa mại dâm, tổ chức hoạt
động mại dâm, cưỡng bức bán dâm, môi giới mại dâm, bảo kê mại dâm và các hành vi
khác liên quan đến tệ nạn mại dâm. Căn cứ vào tính chất của các hành vi, đối
tượng tham gia tệ nạn mại dâm bao gồm các loại đối tượng chủ yếu: người bán dâm,
người mua dâm, người chứa mại dâm, người môi giới mại dâm.
Trong những năm qua tình hình mại dâm có nhiều diễn biến phức tạp, có xu hướng
tăng lên cả về số vụ và tính chất mức độ nghiêm trọng, thủ đoạn hoạt động ngày
càng tinh vi, xảo quyệt, có nhiều thủ đoạn đối phó lại sự phát hiện của quần
chúng nhân dân và hoạt động điều tra của cơ quan công an. Đối tượng tham gia tệ
nạn mại dâm thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau, ở nhiều độ tuổi khác nhau
và có các quốc tịch khác nhau.
Đặc điểm đối tượng chủ chứa mại dâm:
Chủ yếu là nữ, số đối tượng là nam giới chiếm tỉ lệ nhỏ hơn và tập trung ở độ
tuổi từ 30 trở lên. Đa số chủ chứa mại dâm là người có quốc tịch Việt Nam, một
số ít có quốc tịch nước ngoài. Các đối tượng chủ chứa mại dâm có tiền án, tiền
sự chiếm khoảng trên 20%. Các chủ chứa mại dâm có trình độ văn hoá thấp kém, số
chủ chứa có trình độ văn hoá trung học trở lên chiếm tỉ lệ không đáng kể.
Đặc điểm đối tượng môi giới mại dâm:
Đa số đối tượng môi giới mại dâm là nam giới và có độ tuổi từ 18- 30 chiếm tỉ lệ
trên 50%; phần lớn là làm các nghề có điều kiện để môi giới mại dâm như: xe ôm,
xích lô, bảo vệ…Các đối tượng môi giới mại dâm có tiền án, tiền sự chiếm tỉ lệ
khoảng gần 20%; phần lớn các đối tượng có trình độ văn hoá thấp có, khoản trên
20% có trình độ trung học trở lên.
Đặc điểm của đối tượng bán dâm:
Hầu hết các đối tượng bán dâm là nữ, số đối tượng bán dâm là nam giới chiếm tỉ
lệ không đáng kể và có độ tuổi chủ yếu là từ 18- 30. Điều đáng quan tâm hiện nay
là tình trạng trẻ hoá đội ngũ gái bán dâm đang ngày càng gia tăng. Đa số đối
tượng bán dâm không có nghề hoặc nghề tự do chiếm tỉ lệ cao, trình độ văn hoá
thấp kém, một số ít đang là học sinh, sinh viên… Đa số gái mại dâm có điều
kiện kinh tế khó khăn chiếm tỉ lệ trên 50%, chưa có chồng chiếm tỉ lệ cao, sống
li thân hoặc li hôn chiếm tỉ lệ trên 30%, số có chồng làm gái mại dâm chiếm tỉ
lệ nhỏ.
Đặc điểm đối tượng mua dâm:
Phần lớn các đối tượng mua dâm là nam giới (tỉ lệ nữ không đáng kể); độ tuổi 30
trở lên chiếm tỉ lệ cao, khách mua dâm là người nước ngoài đang có xu hướng gia
tăng. Các đối tượng mua dâm có nhiều thành phần nghề nghiệp khác nhau song chủ
yếu tập trung ở những nghề buôn bán dịch vụ, tiểu thương và cán bộ công chức nhà
nước.
Đặc điểm về phương thức, thủ đoạn hoạt động:
Các đối tượng tổ chức hoạt động mại dâm ngày càng có nhiều thủ đoạn hoạt
động tinh vi xảo quyệt và có sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà hàng, khách sạn
vũ trường, nhà nghỉ…hình thành các ổ nhóm, đường dây hoạt động, có sự ăn chia về
“quyền lợi”. Hoạt động núp dưới các danh nghĩa nhà hàng, khách sạn,các dịch vụ
xã hội như: massage, karaoke, giải khát…
Các đối tượng hoạt động tệ nạn mại dâm theo phương thức gái gọi và thông qua gái
mại dâm là một phương thức phổ biến trong giai đoạn hiện nay. Hoạt động này có
mối quan hệ chặt chẽ với các đối tượng buôn bán phụ nữ trẻ em vì mục đích mại
dâm; có sự liên kết với các đối tượng tội phạm là người nước ngoài.
Đặc điểm về địa bàn hoạt động:
Địa bàn hoạt động của tệ nạn mại dâm có ở khắp mọi nơi song chủ yếu hoạt động
của tệ nạn mại dâm là thành phố, thị xã, các khu công nghiệp, du lịch, nghỉ mát,
những nơi có đông người nước ngoài cư trú…
Về hậu quả tác hại:
Tệ nạn mại dâm làm xói mòn đạo đức dân tộc, là một trong những nguyên nhân dẫn
đến căn bệnh thế kỷ.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do một bộ phận nhân dân chưa được giáo dục
đầy đủ về pháp luật, nếp sống lành mạnh, chạy theo lối sống xa hoa hưởng lạc.
Mặt khác công tác quản lý, xử lý đối tượng trên chưa kiên quyết, triệt để, nhiều
nơi còn bị buông lỏng. Một số đối tượng còn có điều kiện dụ dỗ, rủ rê, lừa đảo,
thậm chí ép buộc, cưỡng bức phụ nữ đi vào con đường mại dâm.
Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn mại dâm:
Kịp thời phát hiện và ngăn chặn không để tệ nạn mại dâm lây lan phát triển, đặc
biệt giữ gìn môi trường lành mạnh trong nhà trường. Từng bước xoá bỏ nguyên
nhân, điều kiện của tệ nạn mại dâm tiến tới đẩy lùi tệ nạn mại dâm ra khỏi đời
sống xã hội; phát hiện, điều tra xử lý theo quy định của pháp luật.
6.3. Tệ nạn cờ bạc
Tệ nạn cờ bạc là một loại tệ nạn xã hội bao gồm các hành vi lợi dụng các hình
thức vui chơi giải trí để cá cược, sát phạt nhau bằng tiền hoặc vật chất.
Tệ nạn cờ bạc bao gồm các hành vi:
– Đánh bạc: là hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để sát phạt được
thua thông qua các trò chơi.
– Tổ chức đánh bạc: là hành vi rủ rê, lôi kéo, tập hợp người khác cùng đánh bạc,
người tổ chức cũng có thể cùng tham gia đánh bạc.
– Gá bạc: là hành vi dùng nhà ở của mình hoặc địa điểm khác để chứa các đám bạc
từ đó trục lợi cho mình qua những người đánh bạc.
Đối tượng tham gia tệ nạn cờ bạc bao gồm:
đối tượng tổ chức đánh bạc, đối tượng gá bạc và đối tượng đánh bạc.
Tệ nạn cờ bạc trong những năm qua có những diễn biến hết sức phức tạp,
trong thời gian gần đây tình hình tệ nạn cờ bạc có nhiều diễn biến phức tạp. Bọn
tội phạm sử dụng mạng internet để tổ chức đánh bạc
như: cá độ bóng đá, xóc đĩa, đua ngựa, xúc xắc, bài cào, đá gà….có xu
hướng tăng cả về số vụ và tính chất nghiêm trọng, xuất hiện nhiều hình thức mới
trong hoạt
động,
thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi xảo quyệt, hoạt động có sự câu kết với các
đối tượng là người nước ngoài, hoạt động xuyên quốc gia.
Đặc điểm của tệ nạn cờ bạc:
– Tệ nạn cờ bạc được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: tổ tôm, chắn
cạ, xóc đĩa, tam cúc, xì tố, xập xám, tú lơ khơ, tá lả…và các hình thức cá
cược khác. Tệ nạn cờ bạc có nhiều người mắc phải và có tính lây lan phát triển
nhanh, rất đa dạng bao gồm nhiều thành phần có nghề nghiệp, độ tuổi, trình độ
văn hoá khác nhau (cán bộ công nhân viên chức nhà nước, học sinh, sinh viên, đối
tượng không nghề, nghề nghiệp không ổn định, lưu manh…).
– Các đối tượng đánh bạc, tổ chức đánh bạc, chứa bạc có nhiều thủ đoạn hoạt động
tinh vi xảo quyệt để đối phó lại sự phát hiện của quần chúng nhân dân và hoạt
động điều tra của cơ quan công an. Chúng hình thành các ổ nhóm, đường dây để
hoạt động, thường xuyên thay đổi địa bàn, nhiều tổ chức đường dây hoạt động liên
địa bàn, xuyên quốc gia.
– Tệ nạn cờ bạc có quan hệ chặt chẽ với tội phạm hình sự và các hiện tượng tiêu
cực khác như mại dâm, ma tuý; gây ra hậu quả tác hại lớn cho đời sống xã hội và
gây khó khăn cho công tác giữ gìn trật tự xã hội.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do bản chất ăn bám, bóc lột, lười lao
động, thích hưởng thụ cuộc sống cao sang của một số người; do cuộc sống gia đình
gặp khó khăn, bế tắc trong cuộc sống… cùng với sự thiếu sót trong quản lý kinh
tế, xã hội của Nhà nước và các tổ chức.
Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn cờ bạc:
Kịp thời phát hiện không để tệ nạn cờ bạc lây lan phát triển gây hậu quả tác
hại, đặc biệt trong học sinh, sinh viên và nhà trường. Tiến hành đồng bộ các
biện pháp để đấu tranh xoá bỏ nguyên nhân, điều kiện của tệ nạn cờ bạc. Phối hợp
chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, các cơ quan để đấu tranh triệt phá các ổ
nhóm, dường dây tổ chức hoạt động; xử lí nghiêm minh các đối tượng hoạt động cờ
bạc.
6.4. Tệ nạn mê tín dị đoan
Mê tín dị đoan là tệ nạn xã hội bao gồm các hành vi biểu hiện thái quá lòng tin
mù quáng vào những điều huyền bí không có thật, từ đó có những suy đoán khác
thường, dẫn đến cách ứng xử mang tính chất cuồng tín, hành động trái với những
chuẩn mực của xã hội, gây hậu quả xấu đến sức khoẻ, đời sống vật chất, tinh thần
của người dân, đến an ninh trật tự.
Đặc điểm của tệ nạn mê tín dị đoan:
– Là một biểu hiện của các hủ tục lạc hậu, tàn dư của xã hội cũ còn sót lại
trong xã hội hiện nay; nó kích thích và phù hợp với tâm lí của một bộ phận người
trong xã hội có trình độ nhận thức thấp kém.
– Tệ nạn mê tín dị đoan được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng và có xu
hướng lây lan phát triển nhanh nhất là ở những vùng sâu, nhận thức của quần
chúng còn lạc hậu. Đối tượng tham gia tệ nạn mê tín dị đoan phần lớn là phụ nữ,
những người có trình độ nhận thức thấp kém, hoàn cảnh gia đình gặp nhiều trắc
trở, cuộc sống éo le…ngoài ra còn có một số cán bộ công nhân viên chức, một số
có học thức cao và một bộ phận nhỏ học sinh, sinh viên cũng mắc phải tệ nạn này.
Đối tượng reo rắc mê tín dị đoan:
lợi dụng lòng tin, lợi dụng thần thánh, trời phật, may rủi có hành vi cầu cúng,
đồng bóng, bói toán nhằm buôn bán thần thánh để kiếm lời hoặc tuyên truyền, reo
rắc mê tín dị đoan gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội.
Địa bàn xảy ra có ở khắp mọi nơi song chủ yếu tập trung ở những nơi công tác
quản lí xã hội, quản lí văn hoá còn bộc lộ nhiều yếu kém, trình độ nhận thức của
quần chúng còn lạc hậu.
Tệ nạn mê tín dị đoan hiện đang được các đối tượng phản động và các thế lực phản
cách mạng triệt để lợi dụng để chống phá cách mạng Việt nam, nhất là ở vùng sâu,
vùng đồng bào dân tộc ít người trình độ nhận thức còn lạc hậu, thấp kém.
Tệ nạn mê tín dị đoan gây nên những hậu quả xấu cho xã hội như làm tan vỡ hạnh
phúc nhiều gia đình, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khoẻ con người, gây thiệt hại
đến tài sản của quần chúng, ảnh hưởng xấu tới an ninh trật tự.
Nội dung, yêu cầu phòng chống tệ nạn mê tín dị đoan:
Nâng cao trình độ nhận thức cho toàn dân và học sinh, sinh viên để họ tự giác
đấu tranh với tệ nạn mê tín dị đoan; phân biệt được những hành vi mê tín dị đoan
với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong quần chúng nhân dân, với những hoạt
động lễ hội truyền thống văn hoá dân tộc. Kịp thời phát hiện các hình thức hoạt
động mê tín dị đoan để có biện pháp ngăn chặn.
7. Trách nhiệm của nhà trường và học sinh – sinh viên trong phòng chống tệ nạn
xã hội
7.1. Đối với Nhà trường:
– Thực hiện đầy đủ chương trình giáo dục trong Nhà trường về phòng chống tệ nạn
xã hội; tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh – sinh
viên trong phòng chống các tệ nạn nghiện ma túy, mại dâm, cờ bạc; phân định rõ
mê tín dị đoan với các hoạt động tôn giáo, tự do tín ngưỡng của quần chúng nhân
dân; giáo dục lối sống lành mạnh, đấu tranh chống lối sống buông thả, lối sống
trụy lạc, sống gấp.
– Xác định rõ hậu quả tác hại từng loại tệ nạn xã hội, nguyên nhân và con đường
lây lan; phối hợp với các cơ quan chức năng, lãnh đạo chỉ đạo các các tổ chức
Đoàn thể, Hội phụ nữ… trong đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội; phối kết hợp
với lực lượng Công an cơ sở, chính quyền địa phương và gia đình quản lý chặt chẽ
sinh viên ngoại trú để chủ động phát hiện các hành vi hoạt động ma túy, mại dâm,
cờ bạc, đồng bóng bói toán…có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
– Nắm chắc tình hình học sinh – sinh viên có hành vi hoạt động các tệ nạn xã
hội, cung cấp cho lực lượng bảo vệ, cơ quan Công an những tụ điểm, tổ chức,
đường dây hoạt động tệ nạn xã hội, phối hợp xử lý theo quy định của pháp
luật. Phối hợp cùng chính quyền địa phương, lực lượng bảo vệ văn hoá làm trong
sạch địa bàn trong trường và khu vực xung quanh.
– Giúp cho học sinh – sinh viên hiểu rõ các âm mưu của các thế lực phản động
trong việc lợi dụng tự do tín ngưỡng để chống phá cách mạng Việt Nam. Phát hiện
các trường hợp rủ rê lôi kéo học sinh – sinh viên tham gia vào các tà đạo, các
hoạt động tệ nạn xã hội.
– Tổ chức cho học sinh – sinh viên các lớp ký cam kết không tham gia các hoạt
động tệ nạn xã hội; xây dựng các nội quy, quy chế quản lý ký túc xá, xây dựng
các tổ tự quản trong học tập, rèn luyện, vui chơi. Tổ chức các hoạt động thi tìm
hiểu luật, pháp lệnh, các văn bản của Đảng, Nhà nước về phòng chống tệ nạn xã
hội, đặc biệt tệ nạn ma túy, mại dâm, cờ bạc
đang có dấu hiệu tăng nhanh trong giới trẻ. Tổ chức các hoạt động văn hoá, văn
nghệ, thể thao để thu hút học sinh tham gia.
7.2. Đối với học sinh – sinh viên:
– Nhận thức rõ hậu quả của tệ nạn xã hội, con đường dẫn đến tội phạm; không tham
gia các tệ nạn xã hội dưới
bất kỳ hình thức nào; không
bị lôi kéo cám dỗ bởi những khoái
cảm, những lối sống trụy lạc, coi trọng đồng
tiền, chà
đạp lên đạo đức, pháp luật, bán rẻ sự nghiệp của bản thân.
–
Có trách nhiệm phát hiện các hành vi hoạt động tệ nạn xã hội, các con đường dẫn
đến tệ nạn, đường dây hoạt động ma túy, mại dâm, cờ bạc…báo cáo kịp thời cho Nhà
trường hoặc lực lượng Công an cơ sở.
–
Không có các hành vi mê tín dị đoan hoặc tham gia vào các hủ tục lạc hậu khác.
Bằng kiến thức đã được học phân biệt được các trường hợp tự do tín ngưỡng, các
trường hợp tham quan di tích văn hoá với việc lợi dụng để hoạt động mê tín dị
đoan. Cảnh giác trước các hành vi của các đối tượng “buôn thần bán thánh” và âm
mưu chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực phản động; phát hiện các hình
thức biểu hiện mới của tệ nạn mê tín, của các loại tà đạo nảy sinh trong lớp,
trong Nhà trường báo cáo với Nhà trường, chính quyền địa phương để có biện pháp
ngăn chặn kịp thời.
–
Chủ động phát hiện các trường hợp
học sinh –
sinh viên trong lớp có những dấu hiệu khác thường, những hoàn cảnh éo le, gặp
trắc trở trong học tập, trong tình yêu để có biện pháp động viên, giúp đỡ không
để họ bị sa ngã vào các tệ nạn xã hội, tin vào cầu cúng, bói toán; đam mê, khoái
cảm…gặp gỡ, động viên những sinh viên lầm lỗi, cảm hoá, giáo dục họ tiến bộ trở
thành người có ích.
–
Ký cam kết không tham gia vào các hoạt động tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm.
.. Có thái độ học tập nghiêm túc, có lối sống lành mạnh, tích cực tham gia các
tổ tự quản, thanh niên xung kích tuần tra kiểm soát bảo vệ ký túc xá, bảo vệ Nhà
trường.
NHT-Ban chỉ đạo PCTP,TNXH và XDPTTDBVANTQ