Tại sao không nên vội tin… đức Phật?

Tại vì, có lẽ chính đức Phật cũng không muốn chúng ta tin ngay, tin vội, tin phi chính kiến về mình. 

Một niềm tin cảm tính – một niềm tin chạy theo số đông – một niềm tin như một phản xạ có điều kiện rất có thể sẽ làm hỏng giáo lý mà đức Phật từng dày công gây dựng.

Năm 7-8 tuổi, tôi thường theo bà nội đi chùa và những ngôi chùa với tất cả sự thâm nghiêm, huyền bí của nó đã hấp dẫn thằng-bé-tôi ghê gớm. Khi bà tôi quỳ xuống, chắp tay, cúi đầu vái lạy, tôi cũng được dạy phải làm theo y như thế. Những rung cảm kỳ lạ, khó lý giải xuất hiện trong tâm hồn tôi sau mỗi cái chắp tay, mỗi lần vái lạy. 

Mọi thứ cứ diễn ra như vậy cho đến năm 20 tuổi, sau một giấc mơ lạ và sau rất nhiều suy nghĩ chất chứa của cậu-thanh-niên-tôi (chứ không còn là thằng-bé-tôi) về những cái chắp tay, những lần vái lạy trong mỗi lần bước chân vào chùa. Rốt cuộc thì tại sao mình phải quỳ lạy như thế nhỉ?

Tại sao mình phải tin vào sự màu nhiệm huyền bí đến từ những pho tượng trên đài uy nghiêm? Tại sao mình phải tin chỉ vì bà mình đã tin, bố mẹ mình đã tin, những người xung quanh mình đã tin? Tại sao mình phải tin chỉ vì đấy là một niềm tin thói quen – một niềm tin phản xạ vốn đã theo đuổi mình từ thời thơ ấu?

Tôi đem tất cả những thắc mắc này hỏi vị sư ở một ngôi chùa trong lòng Hà Nội. Vị sư đó giải thích với tôi rằng tôn giáo xét cho cùng được xây dựng trên cơ sở của niềm tin. Có niềm tin sẽ có tốt lành. Có niềm tin sẽ có an lạc. Và có niềm tin sẽ có giải thoát. Cách trả lời ấy vừa thỏa mãn, vừa không thỏa mãn tôi. 

Những bức tượng Phật được chạm khắc tinh vi tại chùa hang Ajanta, Ấn Độ.

Thỏa mãn ở chỗ, xét về mặt nguyên lý, đúng là mọi tôn giáo, tín ngưỡng trong cuộc đời này đều xây dựng trên cơ sở của lòng tin, trong đó có những tín ngưỡng bản địa mà lòng tin ấy là vô điều kiện.

Nhưng theo tìm hiểu của tôi khi đó thì tất thảy những tôn giáo lớn đều có một thế giới quan – một nhân sinh quan – một cơ sở lý luận, và nếu bỏ qua những cơ sở lý luận căn bản này để tin ngay, tin vội, tin mơ hồ thì không loại trừ khả năng chúng ta sẽ bị niềm tin dẫn dắt sai đường.

Đọc kinh Phật, tôi chợt nhận ra chính đức Phật cũng có lần đề cập tới điều này. Kinh Kalama – một trong những bộ kinh rất hay và rất nổi tiếng có kể lại câu chuyện một lần Phật đi ngang qua bộ tộc Kalama và những người thanh niên Kalama đã chạy tới hỏi Phật:

– Thưa thầy, bất kể vị đạo sĩ nào đi qua đây cũng nói giáo lý của họ mới đích thực là chân lý. Do vậy, chúng con hoang mang, không biết tin ai!

Câu trả lời của đức Phật:

– Các con đừng vội tin tưởng vào bất cứ điều gì, cho dù những điều ấy đã được chép trong kinh điển. Cũng đừng vội tin tưởng vào bất kỳ điều gì, cho dù điều ấy được nói ra từ những đạo sư danh tiếng.

Thấy các chàng trai Kalama vẫn chưa hiểu, đức Phật nói rõ thêm:  

– Với tất cả những điều được người khác rao giảng, các con phải dùng tâm mình để quán chiếu, tìm hiểu và phê phán, rồi ứng dụng nó vào đời sống hằng ngày, xem nó có giúp mình thoát khỏi khổ đau được không. Nếu được thì hãy tin.

Cách trả lời của đức Phật khiến chúng ta phải đi đến một kết luận: Cũng chớ vội tin ngay vào chính đức Phật cùng những giáo lý của người, nếu chưa quán chiếu nó, tìm hiểu nó và ứng nghiệm nó vào cuộc sống của chúng ta.

Hiểu như thế (A Di Đà Phật, không biết cách hiểu đó có sống sượng và lầm lạc không!?), mà tôi bắt đầu đọc sách Phật nhiều hơn và bắt đầu thử ứng nghiệm những điều mình đọc vào trong cuộc sống của mình. Nhưng đọc rồi và ứng nghiệm rồi thì tôi vẫn chưa tin ngay.

Thế nên có một giai đoạn dài, thật sự là tôi vẫn hay vãn cảnh chùa, để tìm một sự bình an nào đó, xua đi những căng thẳng mà đời sống này đem lại. Nhưng tôi không còn chắp tay, vái lạy trước tượng Phật như ngày xưa nữa.

Tôi nghĩ, theo tinh thần của kinh Kalama, khi mình chưa hiểu và vẫn chưa thể xác lập một niềm tin đầy đủ vào những giáo lý của Phật mà vẫn cứ chắp tay lạy Phật thì có thể chính đức Phật cũng không hài lòng. Tất nhiên, không chắp tay vái lạy nhưng tôi vẫn giữ sự tôn kính tất yếu của một chúng sinh bé mọn trước một vĩ nhân trong lịch sử loài người.

Đến năm đại học thứ 2, tôi bắt đầu tiếp cận đến khái niệm “tư duy độc lập” từ những cuốn sách tư tưởng phương Tây. Và thật kỳ lạ, cái khoảnh khắc đốn ngộ sâu sắc nhất về khái niệm tư duy độc lập là khoảnh khắc tôi ngưỡng phục và tin tưởng vào giáo lý của đức Phật hơn bất cứ khi nào.

Bởi từ đó đến nay, tôi vẫn giữ nguyên một quan điểm cá nhân rằng, chính đức Phật, bằng cuộc đời và giáo lý của mình lại là minh chứng rõ ràng nhất và để lại những bài học vĩ đại nhất về cái mà người phương Tây gọi là “tư duy độc lập”.

Thử nghĩ xem, sinh ra trong hoàng cung tráng lệ, mang trong mình cái chân mệnh thiên tử điển hình và đã được chuẩn bị trong một khoảng thời gian trên dưới 20 năm để một ngày chính thức làm thiên tử, thế mà vị thiên tử tương lai ấy – thái tử Tất Đạt Đa nhất quyết thoát khỏi cuộc sống vương giả của một thiên tử.

Thoát khỏi cái nôi mà mình đã lớn lên, thoát khỏi những tư tưởng mà mình đã được dạy dỗ, chấp nhận mạo hiểm đi một con đường khác con đường của tất cả những vương tôn quý tử khác, nếu không phải là người có khả năng tư duy độc lập thì sao có thể thực hiện thành công!

Nhưng sự “độc lập” của thái tử Tất Đạt Đa không chỉ là sự độc lập trong mối quan hệ với dòng dõi quý tộc, nó còn là sự “độc lập” với cả đội ngũ tăng lữ thời kỳ đó. 

Bởi lẽ, thoát khỏi chốn hoàng cung nhung lụa, thoạt tiên, thái tử Tất Đạt Đa tìm đến trường tu khổ hạnh. Nhịn ăn, nhịn uống, khổ hạnh, ép xác – đấy là con đường tu tập mà các sa môn cùng thời với người đã theo đuổi. 

Ảnh: Đ.N.

Nhưng với cá nhân mình, chỉ sau một thời gian, người hiểu rằng khổ hạnh ép xác cũng không giúp mình đi tới sự giải thoát, nên nhất định phải chấm dứt con đường tu tập này. 

Người còn khuyên 5 sa môn khác cùng chấm dứt, nhưng không những không nhận được sự đồng cảm, người bị chính những sa môn này phê phán, cho rằng vì không chịu được khổ hạnh mà đã bỏ cuộc giữa chừng.

Thực tế chứng minh đấy không phải là sự “bỏ cuộc giữa chừng” mà đấy là một phản ứng minh triết của một người “tư duy độc lập”, để từ đó sáng tạo ra một con đường tu tập riêng – con đường mà trước đó chưa từng xuất hiện: con đường trung đạo!

Và sau khi đã đắc đạo thì đức Thích Ca Mầu Ni đã nói với chúng ta những tư tưởng mà những tư tưởng ấy tiếp tục cho thấy sự “độc lập tối cao” với truyền thống Ấn Độ giáo đương thời.

Nếu Ấn Độ giáo tin rằng mọi vật trong cõi vũ trụ này đều do thần thánh sinh ra thì với đạo Phật, chẳng có thần thánh huyền bí nào cả. Vạn vật do duyên mà thành, hết duyên mà diệt. 

Khái niệm “duyên” có lẽ là một trong những khái niệm thể hiện sự độc lập rõ nhất và mang tính hiện đại, biện chứng nhất của giáo lý nhà Phật.

Với những gì được ghi trong Áo Nghĩa Thư (Upanishad) – bộ kinh làm nên tư tưởng luận của Ấn Độ giáo thì số phận con người trong kiếp này (quả) được quyết định bởi những gì con người đã gieo trong kiếp trước (nhân).

Nhân nào quả ấy, kiếp trước đã trót mang “nhân” xấu thì kiếp này tất yếu phải chịu “quả” xấu, không khác được. Một quan niệm như thế đẩy con người vào sự bị động của số phận, khiến con người không thể tự quyết định được vận mệnh của đời mình.

Nhưng với đức Thích Ca Mầu Ni, ở giữa hai khái niệm “nhân” – “quả”, người đặt vào đó một chữ “duyên”, một chữ “duyên” lấy lại cho con người tất cả sự chủ động có thể, một chữ “duyên” giúp con người tự quyết định cuộc đời mình, ngay trong kiếp này chứ không bị động phó mặc cuộc đời cho cho những gì xảy ra từ… kiếp trước.

Bởi kiếp trước có lỡ tạo ra “nhân” xấu, nhưng kiếp này biết tạo ra “duyên” tốt, thì cái “duyên” tốt ấy – cái phần mà con người có thể chủ động thực hiện ấy vẫn có thể cải hóa “nhân” xấu, thậm chí tẩy rửa “nhân” xấu để làm nên “quả” tốt.

Rõ ràng là, trong thế giới tư tưởng của Ấn Độ cổ đại, nếu những tôn giáo tiền Phật giáo thể hiện quan điểm định mệnh luận (mọi thứ là do định mệnh, do thần thánh) thì Phật giáo lại nghiêng hẳn về quyết định luận (mọi thứ là do chính mình). Nếu những tôn giáo tiền Phật giáo mang tính hữu thần cực đoan thì Phật giáo lại mang tính vô thần biện chứng.

Như thế có nghĩa ông Phật thực ra rất hiện đại và với cá nhân tôi, bài học lớn nhất mà đức Phật để lại là bài học về khả năng hành động độc lập – tư duy độc lập – quán chiếu độc lập.

Bây giờ, mỗi lần vào chùa, tôi lại chắp tay trước Phật, quỳ lạy Phật với tất cả sự tôn kính lớn nhất của mình. 

Những khoảnh khắc như thế, tôi có cảm tưởng là bậc vĩ nhân ngồi trên đài cao kia đang mỉm cười với tôi và đang nhắc nhở tôi: Hãy nhìn nhận mọi sự vật hiện tượng trong cuộc đời này bằng một tinh thần độc lập, ngay cả khi những điều ấy đã được “xác phong” là chân lý tối cao.

Không nên vội tin đức Phật là vì thế!