Tác động môi trường của công nghệ năng lượng tái tạo-tac dong moi truong cua cong nghe nang luong tai tao

Đối với Việt Nam, việc phát triển năng lượng tái tạo và nâng tỷ lệ của năng lượng tái tạo vừa là định hướng vừa là nhiệm vụ, trọng tâm chính là tạo ra nguồn năng lượng sạch, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm thiểu sử dụng năng lượng hoá thạch, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Tuy nhiên, việc phát triển các dự án cần phải quan tâm đúng mức đối với các tác động đến môi trường, xã hội, bảo vệ văn hoá và tập quán bản địa, đảm bảo sinh kế cho người dân địa phương. Các dự án năng lượng tái tạo khi triển khai sẽ mang lại lợi ích về mặt kinh tế nếu chúng sử dụng lao động địa phương, vật liệu và dịch vụ kinh doanh địa phương…

Tất cả các nguồn năng lượng đều có tác động đến môi trường sống của con người ở các mức độ khác nhau. Những ghi nhận đến thời điểm hiện tại cho thấy, nhiên liệu hóa thạch như than, dầu và khí tự nhiên về cơ bản gây ô nhiễm nhiều hơn so với các nguồn năng lượng tái tạo ở hầu hết các khía cạnh như ô nhiễm không khí và nước, thiệt hại cho sức khoẻ cộng đồng, mất đi động vật hoang dã và môi trường sống, sử dụng đất và làm gia tăng sự nóng lên toàn cầu, ông Mai Văn Huyên – Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển Xanh cho biết.

Ông Huyên cho biết thêm, tuy nhiên, các nguồn năng lượng tái tạo như gió, mặt trời, địa nhiệt, sinh khối và thủy điện cũng có những tác động đến môi trường.Mức độ tác động môi trường khác nhau tùy thuộc vào công nghệ cụ thể được sử dụng, vị trí địa lý và một số yếu tố khác. Bằng cách hiểu các vấn đề môi trường hiện tại và tiềm ẩn liên quan đến từng nguồn năng lượng tái tạo, chúng ta có thể thực hiện các bước để tránh hoặc giảm thiểu những tác động này một cách hiệu quả khi chúng trở thành một phần lớn hơn trong nguồn cung cấp điện trong tương lai.

Năng lượng gió: Cho đến nay, khai thác năng lượng từ gió là một trong những phương pháp sạch nhất và bền vững nhất để tạo ra điện vì nó không tạo ra ô nhiễm độc hại hoặc khí thải làm nóng lên toàn cầu. Gió cũng dồi dào, không cạn kiệt và giá cả phải chăng, điều này làm cho nó trở thành một giải pháp thay thế khả thi để thay thế cho nhiên liệu hóa thạch.

Mặc dù có tiềm năng to lớn, nhưng có rất nhiều tác động môi trường liên quan đến sản xuất điện gió cần được xem xét và giảm thiểu, cụ thể vấn đề sử dụng đất, ảnh hưởng đến môi trường sống của động vật hoang giã và môi trường sống của người dân địa phương…

Điện mặt trời: Giống như năng lượng gió, mặt trời cung cấp một nguồn tài nguyên to lớn để tạo ra điện sạch và bền vững. Tuy nhiên, có các tác động môi trường tiềm ẩn liên quan đến điện mặt trời như: sử dụng đất và mất môi trường sống, sử dụng nước và sử dụng các vật liệu nguy hiểm trong sản xuất… Các loại tác động khác nhau rất nhiều tùy thuộc vào quy mô của hệ thống và công nghệ được sử dụng, bao gồm hai loại chính là pin mặt trời quang điện và nhà máy nhiệt điện mặt trời tập trung.

Sinh khối: Các nhà máy điện sinh khối có một số điểm tương đồng với các nhà máy điện nhiên liệu hóa thạch: cả hai đều liên quan đến việc đốt cháy nguyên liệu để tạo ra điện. Do đó, các nhà máy sinh khối gây ra những lo ngại tương tự, nhưng không giống nhau, về lượng khí thải và việc sử dụng nước như các nhà máy nhiên liệu hóa thạch. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu của các nhà máy sinh khối có thể được sản xuất bền vững, trong khi nhiên liệu hóa thạch không thể tái tạo.

Các nguồn tài nguyên sinh khối để sản xuất điện rất đa dạng, từ cây năng lượng đến chất thải nông nghiệp, phân, lâm sản và chất thải và chất thải đô thị. Cả loại nguyên liệu thô và cách thức phát triển và thu hoạch đều ảnh hưởng đáng kể đến việc sử dụng đất và tác động phát thải khí nóng lên toàn cầu trong vòng đời của việc sản xuất điện từ sinh khối.

Thủy điện: Năng lượng thủy điện bao gồm cả các đập thủy điện lớn và các nhà máy nhỏ trên sông. Các tác động của thủy điện lớn là gây mất rừng đầu nguồn và rừng nguyên sinh, làm làm suy giảm đa dạng sinh học, suy thoái môi trường và ảnh hưởng đến biến đổi khí hậu.

Thủy điện từng được cho là nguồn năng lượng sạch, nhưng những nghiên cứu gần đây đã cho thấy thuỷ điện cũng góp phần làm tăng phát thải khí nhà kính – khí mêtan (CH2), một loại khí nhà kính rất mạnh. Hồ chứa đập thủy điện có thể sản sinh ra một lượng đáng kể khí mêtan và đi-ô-xit các-bon (CO2). Khí mêtan được sinh ra chủ yếu do vi khuẩn phân hủy chất hữu cơ trong điều kiện ít hoặc không có ôxy. Xác động, thực vật bị ngập chìm dưới lòng hồ, phân hủy trong môi trường yếm khí hình thành nên mêtan. Do hệ thống ống dẫn nước cho các tua-bin thủy điện thường được đặt sâu dưới đáy hồ, dưới điều kiện áp suất cao, khí mêtan trong nước dễ dàng thoát ra ngoài. Ngoài ra, các hồ thủy điện hình thành trên các con đập làm ngập chìm các khu rừng nhiệt đới cũng đồng nghĩa với việc làm mất đi những bể chứa CO2 hữu hiệu. Hay làm tăng phát thải CO2 vào khí quyển.

Địa nhiệt: Loại nhà máy điện địa nhiệt được phát triển rộng rãi nhất nằm gần các “điểm nóng” địa chất, nơi đá nóng chảy gần với vỏ trái đất và sản xuất nước nóng.Ở các vùng khác, các hệ thống địa nhiệt được tăng cường (hoặc địa nhiệt đá khô nóng), liên quan đến việc khoan vào bề mặt trái đất để tiếp cận các nguồn địa nhiệt sâu hơn, có thể cho phép tiếp cận rộng rãi hơn với năng lượng địa nhiệt.

Các nhà máy địa nhiệt cũng khác nhau về công nghệ mà họ sử dụng để chuyển đổi tài nguyên thành điện năng (hơi nước trực tiếp, chớp hoặc nhị phân) và loại công nghệ làm mát mà họ sử dụng (làm mát bằng nước và làm mát bằng không khí). Các tác động môi trường khác nhau tùy thuộc vào việc chuyển đổi và công nghệ làm mát được sử dụng.

Ngoài các tác động đối với từng loại năng lượng như trên, năm 2017, Ngân hàng Thế giới đã công bố một báo cáo mô phỏng sự gia tăng trong khai thác vật liệu cần thiết để xây dựng đủ các tiện ích để thu nhận năng lượng mặt trời và gió để tạo ra sản lượng hàng năm khoảng 7 terawatt điện vào năm 2050. Sản lượng đó đủ để cung cấp năng lượng cho một nửa nền kinh tế toàn cầu. Bằng cách nhân đôi số liệu của Ngân hàng Thế giới, ước tính những gì sẽ cần để đạt được mức phát thải bằng 0 và kết quả thật đáng kinh ngạc: 34 triệu tấn đồng, 40 triệu tấn chì, 50 triệu tấn kẽm, 162 triệu tấn tấn nhôm, và không dưới 4,8 tỷ tấn sắt.

Việc chuyển đổi sang năng lượng tái tạo sẽ đòi hỏi một sự gia tăng khổng lồ so với mức độ khai thác hiện có. Đối với neodymium, một nguyên tố thiết yếu trong tuabin gió, lượng khai thác sẽ cần tăng gần 35% so với mức hiện tại.

Cũng tương tự thế đối với kim loại bạc – thành phần rất quan trọng trong các tấm pin mặt trời. Nhu cầu khai thác mỏ bạc sẽ tăng 38 phần trăm và có thể lên tới 105 phần trăm. Nhu cầu về indium, cũng rất cần thiết cho công nghệ năng lượng mặt trời, sẽ tăng hơn gấp ba và có thể sẽ tăng vọt lên tới 920%.

Việc khai thác triệt để như thế sẽ làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng khai khoáng quá mức hiện nay. Khai thác khoáng sản đã trở thành một trong những động lực lớn nhất của nạn phá rừng, phá vỡ hệ sinh thái và hủy diệt đa dạng sinh học trên toàn thế giới. Các nhà sinh thái học ước tính rằng ngay cả với mức sử dụng vật liệu toàn cầu hiện nay, chúng ta đang vượt quá mức bền vững tới 82%.

Phát triển năng lượng bền vững là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới nhằm đảm bảo nguồn cung ứng điện lâu dài và giảm thiểu các tác động đến môi trường từ các nguồn năng lượng hoá thạch. Phát triển năng lượng tái tạo là tất yếu, tuy nhiên vấn đề của năng lượng tái tạo không chỉ ở sự phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên mà còn là “sự gia tăng về quy mô không đủ nhanh để đạt tới mức giá rẻ và thực tế trước những yêu cầu của nền kinh tế toàn cầu đang tăng trưởng”.