Sự khác biệt giữa tết miền Bắc và tết miền Nam – Quà Tết Online
Dù cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam nhưng do khác nhau về đặc điểm khí hậu, văn hóa và con người nên hai miền Bắc – Nam cũng có sự khác biệt nhất định về phong tục tập quán, nhất là vào dịp Tết Nguyên Đán.
Nội Dung Chính
1. Hoa ngày Tết: Hoa đào và hoa mai
Đã từ rất lâu rồi, nhắc đến hoa đào và hoa mai là mọi người sẽ nghĩ đến ngày Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc ta. Hoa đào là biếu tượng của ngày Tết ở miền Bắc do hợp với khí hậu lành lạnh nơi đây, còn hoa mai rực rỡ lại thích hợp với nắng vàng rực rỡ đất phương Nam. Hai loại hoa này chỉ nở vào mùa xuân, gần dịp Tết hoặc trong những ngày Tết ngắn ngủi. Nhưng dù là hoa đào hay hoa mai, hai loài hoa này cũng báo hiệu mùa xuân về, một năm mới với những sự khởi đầu mới với bao may mắn và bình an cho mọi người, mọi nhà.
2. Thời tiết: Lạnh và nóng
Do đất nước ta trải dài từ Bắc xuống Nam với hơn 2000 km chiều dài nên có sự phân hóa thời tiết và khí hậu thấy rõ. Miền Bắc có tới bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông trong khi miền Nam chỉ có hai mùa Mưa và Nắng với nhiệt độ luôn ở mức gần 30 độ C, kể cả trong những ngày Tết. Vào những ngày này, khi người dân miền Bắc đa phần diện các trang phục mùa đông như áo khoác, áo len, áo dạ, khăn quàng ấm… và tận hưởng không khí se se lạnh cùng thời tiết mưa phùn của thời tiết giao thoa giữa mùa Đông và mùa Xuân thì người dân miền Nam lại tung tăng ra đường với áo cộc tay, áo sơ mi… thời tiết cũng không khác nhiều thời tiết mùa hè ở miền Bắc là mấy.
3. Bánh cổ truyền: Bánh chưng và bánh tét
Nếu như miền Bắc có món bánh chưng vuông vắn với màu xanh nổi bật của lá dong đã được lưu vào truyền thuyết thì miền Nam lại nổi tiếng với món bánh Tét với các nguyên liệu, vỏ và nhân bánh giống hệt với bánh chưng, gồm lá dong bọc gạo nếp, nhân thịt mỡ, đậu xanh và hành khô, chỉ khác về hình dạng bánh với từng cái bánh hình trụ dài, khi ăn có thể cắt ra thành từng khoanh tiện lợi, không như bánh chưng hình vuông được cắt thành 8 miếng bánh hình tam giác nhỏ.
4. Các món dưa muối: Dưa hành và dưa giá
Trong một câu thơ quen thuộc “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ…”, có một món ăn quen thuộc được nhắc đến, đó là món dưa hành muối. Đây là một món ăn rất quen thuộc của người miền Bắc. Những củ hành tươi sẽ được cắt ngắn, đem muối với nước sạch, đường, muối, hành khô cắt nhỏ và để tự lên men. Tùy thói quen mà bạn có thể ăn được món này từ 1-3 ngày. Món hành muối có thể chấm mắm để ăn với cơm hoặc ăn riêng, có vị chua chua của dưa muối và hanh hanh của hành, rất ngon miệng và không thể thiếu trong các gia đình miền Bắc.
Người dân miền Nam cũng có món dưa muối cổ truyền tương ứng với món hành muối của miền Bắc, đó là món dưa giá muối. Nguyên liệu chủ yếu của món này cũng rất đơn giản, chỉ bao gồm giá đỗ, cà rốt, rau hẹ và một số gia vị cơ bản. Đặc điểm của món này là làm xong bạn có thể ăn luôn trong ngày chứ không cần đợi đến 2-3 ngày sau như món hành muối do đặc điểm dễ thấm gia vị của giá đỗ.
5. Món canh: Canh bóng bì và canh khổ qua hầm
Vào những ngày Tết âm lịch, người miền Bắc hay nấu món canh bóng bì, được làm từ da lợn đã được làm sạch và phơi khô, thêm vào vài cọng hành tươi cho đẹp mắt. Món canh này rất được ưa chuộng vì độ ngon ngọt của nước canh và cũng rất dễ ăn. Ngược lại với người miền Bắc, người miền Nam lại có món canh hầm khổ qua (mướp đắng). Với những người mới ăn mướp đắng lần đầu hoặc không ăn quen thì món canh dù có độ ngọt cũng không thể át được vị đắng của khổ qua. Nhưng nếu đã ăn được thì sẽ rất thích, thậm chí rất “ghiền”, theo ngôn ngữ phương Nam.
6. Đãi khách
Khi có khách đến chúc Tết, người miền Bắc sẽ đem bánh kẹo, hạt bí, hạt dẻ và mứt để đãi khách và cũng thưởng thức chén trà đầu năm. Còn với người miền Nam, họ sẽ đón chào những người khách bằng việc mời ăn nhậu với bia, rượu, đồ nhắm… do đặc điểm hay ăn nhậu của mình.
7. Mâm ngũ quả: Người miền Nam kiêng chuối
Trên mâm ngũ quả của người miền Bắc bao giờ cũng có 1 đến 2 nải chuối to và đẹp để làm “bệ đỡ” cho các lại quả khác. Đây là truyền thống lâu đời, cũng giống như cách bày biện trên bàn thờ ngày thường. Nhưng người miền Nam lại rất kiêng loại quả này trên mâm ngũ quả, do từ “chuối” đồng âm với từ “chúi” theo cách phát âm của người miền Nam, làm người ta dễ liên tưởng đến sự đi xuống hay làm ăn thất bát.
8. Cúng ông Táo: Người miền Nam không cúng cá chép
Vào ngày 23 tháng Chạp, cả hai miền Bắc – Nam đều có tập tục cúng lễ để tiễn ông Táo về trời. Nhưng khác với miền Bắc cúng lễ bao giờ cũng đi kèm một con cá chép để ông Táo “cưỡi” về trời, người miền Nam lại kiêng cúng cá chép do học có quan niệm, những con vật như cá chép rất linh thiêng, chỉ nên dành cho vua chúa nên không được phép động đến.
9. Chơi tết
Quan niệm của người dân miền Bắc là ngày Tết là thời gian để đoàn tụ các thành viên trong gia đình, nên họ thường quây quần bên nhau ở nhà để sum họp, trò chuyện và ăn uống hoặc đi chúc tết họ hàng, bạn bè, hàng xóm. Nhưng người miền Nam với suy nghĩ và tư duy “thoáng” hơn, rằng ngày Tết là để nghỉ ngơi, nên họ thường dành thời gian và tiền bạc tích lũy được trong năm để đi du lịch, khám phá đây đó với người thân và bạn bè.