Soạn bài Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lý – SGK môn Ngữ văn 9 tập 2 đầy đủ, chính xác và bám sát chương trình SGK trên lớp. – chuabaitap.com

I. Tìm hiểu bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí:

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi.

TRI THỨC LÀ SỨC MẠNH
 

      Nhà khoa học người Anh Phơ-răng-xít Bê-cơn (thế kỉ XVI –XVII) đã nói một câu nổi tiếng: “Tri thức là sức mạnh”. Sau này Lê-nin, một người thầy của cách mạng vô sản thế giới, lại nói cụ thể hơn: “Ai có tri thức thì người ấy có được sức mạnh”. Đó là một tư tưởng sâu sắc. Tuy vậy, không phải ai cũng hiểu được tư tưởng ấy.
       Tri thức đúng là sức mạnh. Người ta kể rằng, có một máy phát điện cỡ lớn của công ti Pho bị hỏng. Một hội đồng gồm nhiều kĩ sư họp 3 tháng liền tìm không ra nguyên nhân. Người ta phải mời đến chuyên gia Xten-mét-xơ. Ông xem xét và làm cho máy hoạt động trở lại. Công ti phải trả cho ông 10.000 đôla. Nhiều người cho Xten-mét-xơ là tham, bắt bí để lấy tiền. Nhưng trong giấy biên nhận, Xten-mét-xơ ghi: “Tiền vạch một đường thẳng là 1 đôla. Tiền tìm ra chỗ để vạch đúng đường ấy giá: 9999 đôla”. Rõ ràng người có tri thức thâm hậu có thể làm được những việc mà nhiều người khác không làm nổi. Thử hỏi, nếu không biết cách chữa thì cỗ máy kia có thể thoát khỏi số phận trở thành đống phế liệu được không!?
      Tri thức cũng là sức mạnh của cách mạng. Bác hồ của chúng ta sau chuyến đi Pháp năm 1946 trở về đã thu hút được nhiều nhà trí thức Việt Nam danh tiếng đi theo kháng chiến như kĩ sư Tần Đại Nghĩa, tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên, các bác sĩ Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, nhà toán học Tạ Quang Bửu,… Các nhà trí thức ấy đã đem tri thức của mình mà xây dựng các ngành quân giới, giáo dục, y tế,… góp phần to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thành công. Trong cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, các giáo sư Đàm Trung Đồn, Vũ Đình Cự đã huy động tri thức góp phần phá thủy lôi nổ chậm của địch, khai thông bến cảng. Và ngày nay, các nhà khoa học nông nghiệp như Bùi Huy Đáp, Vũ tuyên Hoàng,… đã lai tạo giống lúa mới, góp hần tăng sản lượng nông nghiệp, làm cho nước ta không chỉ có đủ lương thực mà còn trở thành một trong những nước đứng hàng đầu về xuất khẩu gạo trên thế giới.
      Tri thức có sức mạnh to lớn như thế nhưng đáng tiếc là còn không ít người chưa biết quí trọng tri thức. Họ coi mục đích của việc học chỉ là để có mảnh bằng mong sau này tìm việc kiếm ăn hoặc thăng quan tiến chức. Họ không biết rằng, muốn biến nước ta thành một quốc gia giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, sánh vai cùng các nước trong khu vực và thế giới cần phải có biết bao nhiêu nhà tri thức tài năng trên mọi lĩnh vực!

(Hương Tâm)

Câu hỏi:

a) Văn bản trên bàn về vấn đề gì?
b) Văn bản có thể chia làm mấy phần? Chỉ ra nội dung của mỗi phần và mối quan hệ của chúng với nhau.
c) Đánh dấu các câu mang luận điểm chính trong bài. Các luận điểm ấy đã diễn đạt được rõ ràng, dứt khoát ý kiến của người viết chưa?
d) Văn bản đã sử sụng phép lập luận nào là chính? Cách lập luận có thuyết phục hay không?
e) Bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí khác với bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống như thế nào?

II. Luyện tập:

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi.

THỜI GIAN LÀ VÀNG

     Ngạn ngữ có câu: Thời gian là vàng. Nhưng vàng thì mua được mà thời gian không mua được. Thế mới biết vàng có giá mà thời gian là vô giá.
     Thật vậy, thời gian là sự sống. Bạn vào bệnh viện mà xem, người bệnh nặng, nếu kịp thời chạy chữa thì sống, để chậm là chết.
     Thời gian là thắng lợi. Bạn hỏi các anh bộ đội mà xem, trong chiến đấu, biết nắm thời cơ, đánh địch đúng lúc là thắng lợi, để mất thời cơ là thất bại.
     Thời gian là tiền. Trong kinh doanh, sản xuất hàng hóa đúng lúc là lãi, không đúng lúc là lỗ.
     Thời gian là tri thức. Phải thường xuyên học tập thì mới giỏi. Học ngoại ngữ mà bữa đực bữa cái, thiếu kiên trì, thì học mấy cũng không giỏi được.
     Thế mới biết, nếu biết tận dụng thời gian thì làm được bao nhiêu điều cho bản thân và cho xã hội. Bỏ phí thời gian thì có hại về sau hối tiếc cũng không kịp.

(Phương Liên)

Câu hỏi:
a) Văn bản trên thuộc loại nghị luận nào?
b) Văn bản nghị luận về vấn đề gì? Chỉ ra luận điểm chính của nó.
c) Phép lập luận chủ yếu trong bài này là gì? Cách lập luận trong bài có sức thuyết phục như thế nào?

 

Lời giải:

I. Tìm hiểu bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí:

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi.

TRI THỨC LÀ SỨC MẠNH
 

      Nhà khoa học người Anh Phơ-răng-xít Bê-cơn (thế kỉ XVI –XVII) đã nói một câu nổi tiếng: “Tri thức là sức mạnh”. Sau này Lê-nin, một người thầy của cách mạng vô sản thế giới, lại nói cụ thể hơn: “Ai có tri thức thì người ấy có được sức mạnh”. Đó là một tư tưởng sâu sắc. Tuy vậy, không phải ai cũng hiểu được tư tưởng ấy.
       Tri thức đúng là sức mạnh. Người ta kể rằng, có một máy phát điện cỡ lớn của công ti Pho bị hỏng. Một hội đồng gồm nhiều kĩ sư họp 3 tháng liền tìm không ra nguyên nhân. Người ta phải mời đến chuyên gia Xten-mét-xơ. Ông xem xét và làm cho máy hoạt động trở lại. Công ti phải trả cho ông 10.000 đôla. Nhiều người cho Xten-mét-xơ là tham, bắt bí để lấy tiền. Nhưng trong giấy biên nhận, Xten-mét-xơ ghi: “Tiền vạch một đường thẳng là 1 đôla. Tiền tìm ra chỗ để vạch đúng đường ấy giá: 9999 đôla”. Rõ ràng người có tri thức thâm hậu có thể làm được những việc mà nhiều người khác không làm nổi. Thử hỏi, nếu không biết cách chữa thì cỗ máy kia có thể thoát khỏi số phận trở thành đống phế liệu được không!?
      Tri thức cũng là sức mạnh của cách mạng. Bác hồ của chúng ta sau chuyến đi Pháp năm 1946 trở về đã thu hút được nhiều nhà trí thức Việt Nam danh tiếng đi theo kháng chiến như kĩ sư Tần Đại Nghĩa, tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên, các bác sĩ Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, nhà toán học Tạ Quang Bửu,… Các nhà trí thức ấy đã đem tri thức của mình mà xây dựng các ngành quân giới, giáo dục, y tế,… góp phần to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thành công. Trong cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, các giáo sư Đàm Trung Đồn, Vũ Đình Cự đã huy động tri thức góp phần phá thủy lôi nổ chậm của địch, khai thông bến cảng. Và ngày nay, các nhà khoa học nông nghiệp như Bùi Huy Đáp, Vũ tuyên Hoàng,… đã lai tạo giống lúa mới, góp hần tăng sản lượng nông nghiệp, làm cho nước ta không chỉ có đủ lương thực mà còn trở thành một trong những nước đứng hàng đầu về xuất khẩu gạo trên thế giới.
      Tri thức có sức mạnh to lớn như thế nhưng đáng tiếc là còn không ít người chưa biết quí trọng tri thức. Họ coi mục đích của việc học chỉ là để có mảnh bằng mong sau này tìm việc kiếm ăn hoặc thăng quan tiến chức. Họ không biết rằng, muốn biến nước ta thành một quốc gia giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, sánh vai cùng các nước trong khu vực và thế giới cần phải có biết bao nhiêu nhà tri thức tài năng trên mọi lĩnh vực!

(Hương Tâm)

Câu hỏi:

a) Văn bản trên bàn về vấn đề gì?
b) Văn bản có thể chia làm mấy phần? Chỉ ra nội dung của mỗi phần và mối quan hệ của chúng với nhau.
c) Đánh dấu các câu mang luận điểm chính trong bài. Các luận điểm ấy đã diễn đạt được rõ ràng, dứt khoát ý kiến của người viết chưa?
d) Văn bản đã sử sụng phép lập luận nào là chính? Cách lập luận có thuyết phục hay không?
e) Bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí khác với bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống như thế nào?

Trả lời

a. Văn bản bàn về giá trị của tri thức khoa học và người trí thức.
b. Văn bản có thể chia thành 3 phần:
– Mở bài (đoạn1): Nêu vấn đề tri thức là sức mạnh
– Thân bài (đoạn 2+3): nêu 2 ví dụ để chứng minh tri thức là sức mạnh
– Kết bài (còn lại): phê phán một số người không biết tầm quan trọng của trí thức.
c. Một số câu có luận điểm chính trong bài:
– Nhà khoa học người Anh Phơ-răng-xít Bê-cơn (thế kỉ XVI-XVII) đã nói….
– Sau này, Lê-nin, một người thầy của cách mạng vô sản thế giới, lại nói…
– Tri thức cũng là sức mạnh của cách mạng.
– Tri thức có sức mạnh to lớn như thế…
– Họ không biết rằng…
d. Phép lập luận chính trong bài là chứng minh. 
e. Bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí thường dùng cách giải thích, chứng minh,… 
Bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống thường đi từ các sự việc, hiện tượng cụ thể

 

II. Luyện tập:

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi.

THỜI GIAN LÀ VÀNG

     Ngạn ngữ có câu: Thời gian là vàng. Nhưng vàng thì mua được mà thời gian không mua được. Thế mới biết vàng có giá mà thời gian là vô giá.
     Thật vậy, thời gian là sự sống. Bạn vào bệnh viện mà xem, người bệnh nặng, nếu kịp thời chạy chữa thì sống, để chậm là chết.
     Thời gian là thắng lợi. Bạn hỏi các anh bộ đội mà xem, trong chiến đấu, biết nắm thời cơ, đánh địch đúng lúc là thắng lợi, để mất thời cơ là thất bại.
     Thời gian là tiền. Trong kinh doanh, sản xuất hàng hóa đúng lúc là lãi, không đúng lúc là lỗ.
     Thời gian là tri thức. Phải thường xuyên học tập thì mới giỏi. Học ngoại ngữ mà bữa đực bữa cái, thiếu kiên trì, thì học mấy cũng không giỏi được.
     Thế mới biết, nếu biết tận dụng thời gian thì làm được bao nhiêu điều cho bản thân và cho xã hội. Bỏ phí thời gian thì có hại về sau hối tiếc cũng không kịp.

(Phương Liên)

Câu hỏi:
a) Văn bản trên thuộc loại nghị luận nào?
b) Văn bản nghị luận về vấn đề gì? Chỉ ra luận điểm chính của nó.
c) Phép lập luận chủ yếu trong bài này là gì? Cách lập luận trong bài có sức thuyết phục như thế nào?

Trả lời

Tìm hiểu văn bản: Thời gian là vàng
a. Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí.
b. Văn bản nghị luận về giá trị của thời gian.
– Các luận điểm chính:
+ thời gian là sự sống
+ thời gian là thắng lợi
+ thời gian là tiền
+ thời gian là tri thức
* Sau mỗi luận điểm là một dẫn chứng thuyết phục cho giá trị của thời gian.
c. Phép lập luận chủ yếu trong bài là phân tích và chứng minh.