Soạn bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống sgk Ngữ văn 12 tập 1
Nội dung bài Soạn bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống sgk Ngữ văn 12 tập 1 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, phân tích, cảm nhận, thuyết minh, nghị luận,… đầy đủ các bài văn lớp 12 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn và ôn thi THPT Quốc gia.
NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG
1. Câu 1 trang 66 Ngữ văn 12 tập 1
Tìm hiểu đề và lập dàn ý
Đề bài:
Hãy bày tỏ ý kiến của mình về hiện tượng được nêu trong bài viết sau:
CHIA CHIẾC BÁNH CỦA MÌNH CHO AI?
Nếu coi thời gian một ngày của bạn là chiếc bánh tròn trịa, bạn sẽ chia chiếc bánh cho bố mẹ, cho công việc, cho gia đình bao nhiêu và dành cho mình bao nhiêu phần?
Trong khi không ít các bạn trẻ hiện nay đang lãng phí chiếc bánh của mình vào những trò chơi vô bổ thì chàng “thanh niên trẻ tiêu biểu Thành phố Hồ Chí Minh 2007” Nguyễn Hữu ân lại dành hết chiếc bánh thời gian của mình cho những người bệnh ung thư giai đoạn cuối.
Một câu chuyện lạ lùng…
(Theo Tạ Minh Phương, Báo điện tử Nguoiduongthoi.com.vn,
ngày 4 – 1 – 2007)
Gợi ý thảo luận:
a) Tìm hiểu đề:
– Đề bài yêu cầu bàn về hiện tượng gì?
– Bài viết cần có những ý nào? Sắp xếp các ý đó ra sao?
– Nên chọn những dẫn chứng nào?
– Cần vận dụng những thao tác lập luận nào?
b) Lập dàn ý:
Mở bài: Cần nêu những gì? Giới thiệu hiện tượng cần nghị luận như thế nào?
Thân bài:
– Tóm tắt những việc làm của Nguyễn Hữu ân. (Cần bám sát đề. Chú ý câu thứ hai “Trong khi… giai đoạn cuối”.)
– Phân tích: Hiện tượng Nguyễn Hữu ân có ý nghĩa gì, tiêu biểu cho những phẩm chất nào của thanh niên ngày nay? Có thể minh hoạ thêm một vài tấm gương thanh niên có nghĩa cử tương tự Nguyễn Hữu ân.
– Bình luận: Phê phán một vài hiện tượng tiêu cực trong lối sống “lãng phí chiếc bánh thời gian vào những trò chơi vô bổ” của thanh niên, học sinh,…
Kết bài: Bày tỏ suy nghĩ riêng của người viết.
Trả lời:
a) Tìm hiểu đề
– Đề bài yêu cầu bàn về hiện tượng anh Nguyễn Hữu Ân dành hết chiếc bánh thời gian của mình cho những người bệnh ung thư giai đoạn cuối.
– Bài viết cần một số ý chính sau:
+ Bàn luận về việc làm của Nguyễn Hữu Ân: đó là nghĩa cử cao đẹp, giàu đức hi sinh, lòng nhân ái, xứng đáng là tấm gương sáng của xã hội.
+ Lí giải, đề cao thời gian ý nghĩa, hữu ích trong cuộc đời mỗi người và lối sống cao đẹp.
+ Phê phán những thanh niên sống vị kỉ, vô tâm, đua đòi, lãng phí thời gian vô ích.
+ Rút ra bài học nhận thức và hành động để có quỹ đời ý nghĩa, cao đẹp.
– Chọn dẫn chứng tiêu biểu, thuyết phục và phong phú trong đời sống thực tế.
– Cần vận dụng các thao tác lập luận: phân tích, chứng minh, bác bỏ, bình luận.
b) Lập dàn ý
– Mở bài: Giới thiệu tấm gương Nguyễn Hữu Ân, từ đó đặt vấn đề về chiếc bánh thời gian.
– Thân bài:
+ Tóm tắt và bình luận về những việc làm cao đẹp của Nguyễn Hữu Ân.
+ Phân tích, đề cao phẩm chất cao thượng, nhân ái, giàu đức hi sinh của thanh niên ngày nay. Cung cấp các dẫn chứng tiêu biểu trong thanh niên về lối sống này.
+ Phê phán lối sống vị kỉ, vô nghĩa, lãng phí thời gian của một bộ phận thanh niên.
+ Rút ra bài học nhận thức và hành động.
– Kết bài: bày tỏ suy nghĩ riêng của bản thân.
2. Câu 2 trang 67 Ngữ văn 12 tập 1
Sau khi thảo luận, anh (chị) hiểu được những gì về cách làm bài nghị luận về một hiện tượng đời sống?
Trả lời:
– Bài nghị luận về một hiện tượng đời sống thường có các nội dung: nêu rõ hiện tượng, phân tích các mặt đúng – sai, lợi – hại, chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượng xã hội đó.
– Diễn đạt cần cần chuẩn xác, có thể sử dụng một số phép tu từ và yếu tố biểu cảm, nhất là phần nêu cảm nghĩ riêng.
LUYỆN TẬP
1. Câu 1 trang 67 Ngữ văn 12 tập 1
Đọc văn bản sau rồi trả lời các câu hỏi nêu ở dưới.
[…] Thanh niên ta cũng cần biết là hiện nay có hơn hai nghìn thanh niên Trung Quốc trên đất Pháp và độ năm bạn ở châu âu và châu Mĩ. Hầu hết những thanh niên ấy đều đã tốt nghiệp Hán lan là tất cả đang là sinh triển – công nhân. Còn chúng ta, thì chúng ta có những sinh liên được học bổng và những sinh liên thường, nhờ ơn Nhà nước hay tiền của cha mẹ (hại thay, hai cái nguồn ấy lại không bao giờ cạn cả), mà đang dành một nửa thì giờ nào việc chơi bi-a, một nửa của nửa thì giờ còn lại để đến các chốn ăn chơi; số thì giờ còn lại, mà ít khi còn làm, thì để vào trường đại học hoặc trường trung học. Những sinh viên – công nhân Trung Quốc thì lại không có mục đích nào khác làm là nhằm thực sự chấn hưng nền kinh tế nước nhà và họ theo châm ngôn: “Sinh sống bằng lao động của bản thân và vừa học hỏi vừa lao động.
[…] Kiên trì, quyết tâm và đoàn kết như thế, các “ông chú trẻ tuổi” của chúng ta chắc chắn sẽ đạt mục đích. Với một đạo quân 50 000 công nhân dũng cám đáng khâm phục, lại được đào tạo trong kỉ luật và kĩ thuật hiện đại, thì không bao lâu nữa, Trung Quốc sẽ có một địa vị trong hàng các cường quốc công nghiệp là thương nghiệp thế giới.
Ở Đông Dương, chúng ta có đủ tất ca những cái mà một dân tộc có thể mong muốn như: hải cảng, hầm mỏ, đồng ruộng mênh mông, rừng rú bao la; chúng ta có những người lao động khéo léo và cần cù.
Nhưng chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ chức! Bởi thế công nghiệp và thương nghiệp của chúng ta là một con số không. Thế thì thanh niên của ta đang làm gì? Nói ra thì buồn, buồn lắm: Họ không làm gì cả. Những thanh niên không có phương tiện thì không dám rời quê nhà, những người có phương tiện thì lại chìm ngập trong sự biếng nhác; còn những kẻ đã xuất dương thì chỉ nghĩ đến diệc thoả mãn tính tò mò của tuổi trẻ mà thôi!
Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh.
(Nguyễn Ái Quốc, Gửi thanh niên An Nam, trong Thơ văn Hồ Chí Minh
(Tác phẩm chọn lọc dùng trong nhà trường), NXB Giáo dục, 2004)
Câu hỏi:
a) Trong văn bản trên, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc bàn về hiện tượng gì trong đời sống? Hiện tượng ấy diễn ra trong thời gian nào?
b) Tác giả đã sử dụng những thao tác lập luận nào để bàn về hiện tượng nói trên? Nêu dẫn chứng và phân tích tác dụng của chúng.
c) Cách dùng từ, viết câu, diễn đạt độc đáo trong văn bản có tính thuyết phục cao ở những điểm nào? Phân tích một số ví dụ cụ thể để minh hoạ.
d) Anh (chị) rút ra những bài học gì cho bản thân sau khi đọc văn bản trên?
Trả lời:
a) Nguyễn Ái Quốc bàn về hiện tượng thanh niên, sinh viên Việt Nam du học ở nước ngoài dành quá nhiều thời gian cho việc chơi bời vô bổ mà bỏ qua nhiệm vụ học tập, rèn luyện để trở về xây dựng đất nước. Hiện tượng này diễn ra trong thế kỉ XX.
b) Để bàn về hiện tượng, tác giả sử dụng thao tác phân tích, so sánh, bác bỏ.
– Phân tích: thanh niên du học mải chơi, thanh niên trong nước không làm gì, họ sống già cỗi, thiếu tổ chức, rất nguy hại cho tương lai đất nước.
– So sánh: nêu hiện tượng sinh viên Trung Quốc chăm chỉ cần cù nhằm chấn hưng đất nước.
– Bác bỏ: thế thì thanh niên của ta đang làm gì?…họ không làm gì cả.
c) Cách dùng từ, viết câu, diễn đạt độc đáo có tính thuyết phục cao: dẫn chứng cụ thể xác đáng; kết hợp nhuần nhuyễn các kiểu câu như câu trần thuật, câu hỏi, câu cảm thán;
d) Văn bản trên đem lại nhiều bài học cho thanh niên ngày nay:
– Thanh niên luôn phải ý thức về sứ mệnh xây dựng đất nước trên đôi vai mình.
– Cần chăm chỉ học tập và rèn luyện, dù sống trong hoàn cảnh nào.
– Bồi đắp tinh thần trách nhiệm, sống có lí tưởng để cuộc đời có ý nghĩa và hữu ích.
2. Câu 2 trang 69 Ngữ văn 12 tập 1
Anh (chị) suy nghĩ gì về hiện tượng “nghiện” ka-ra-ô-kê và in-tơ-nét trong nhiều bạn trẻ hiện nay?
Lập dàn ý cho bài viết của mình.
Trả lời:
Mở bài: Dẫn dắt về hiện tượng “nghiện” ka-ra-ô-kê/in-tơ-nét.
Thân bài:
– Bày tỏ quan điểm: hiện tượng “nghiện” ka-ra-ô-kê/in-tơ-nét đang tràn lan trong giới trẻ và là hiện tượng tiêu cực cần bị phê phán và khắc phục.
– Tác hại: gây lãng phí thời gian; tiêu tốn tiền của; làm xao nhãng ý chí; ảnh hưởng tới sức khỏe; hình thành lối sống ăn chơi đua đòi; dễ sa ngã gây nhiều hệ lụy xã hội đau lòng.
– Nguyên nhân: sự ham thích thái quá; thói lười biếng ỉ lại; lối sống đua đòi; thiếu mục đích sống; các cơ sở ka-ra-ô-kê/in-tơ-nét tràn lan thiếu sự quản lí sát sao và tiềm ẩn nhiều thú vui độc hại; gia đình, nhà trường và xã hội chưa quan tâm đúng mức đến hiện tượng này…
– Giải pháp khắc phục tình trạng “nghiện” ka-ra-ô-kê/in-tơ-nét:
+ Đối với mỗi cá nhân: tự ý thức về sự nguy hại của việc “nghiện” ka-ra-ô-kê/in-tơ-nét, điều chỉnh lối sống; đặt ra mục đích sống và phấn đấu vươn tới lối sống lành mạnh, có ích.
+ Đối với gia đình, nhà trường: giáo dục và định hướng lối sống lành mạnh cho con cái,
+ Đối với xã hội: tuyên truyền, đặt ra các quy định tại các cơ sở ka-ra-ô-kê/in-tơ-nét,…
Kết bài: Khẳng định tác hại của hiện tượng và đề cao lối sống lành mạnh, có lí tưởng tốt đẹp.
Bài trước:
Bài tiếp theo:
Xem thêm:
Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống sgk Ngữ văn 12 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các em làm bài Ngữ văn thật tốt!
“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com“