Sổ tay học làm Thơ
Sổ tay học làm Thơ
Sổ tay học làm Thơ
Trang 1/1
[ 10 bài ]
In kết quả
Đề tài trước | Bài chưa đọc đầu tiên | Đề tài tiếp theo
Sổ tay học làm Thơ
26.10.2016, 09:13
Nminhngoc1012
V.I.P
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36
Tuổi: 35
Bài viết: 35935
Được thanks: 6059 lần
Điểm:
9.62
02.05.2014, 01:3635359356059 lần
5
Sổ tay học làm Thơ – Điểm:
SỔ TAY HỌC LÀM THƠ
Hướng dẫn về các lý thuyết cơ bản, cách làm một số thể thơ thông dụng, cách gieo vần, luật và các kỹ thuật làm thơ.
Đây là phần lý thuyết mang tính tham khảo vì chỉ là gom nhặt từ một số tài liệu, có thể chưa hoàn toàn chính xác và đầy đủ.
Cũng xin các tác giả cho phép được sử dụng một số bài thơ để làm ví dụ.
Tổng hợp từ nhiều nguồn.
Tìm kiếm với từ khoá:
Share
An Nhiên Chi Lạc, Hoa Mùa Hạ, Hoàng Lão Tà, Mymk, Tĩnh Tâm
5 thành viên đã gởi lời cảm ơn Nminhngoc1012 về bài viết trên:
26.10.2016, 09:24
Nminhngoc1012
V.I.P
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36
Tuổi: 35
Bài viết: 35935
Được thanks: 6059 lần
Điểm:
9.62
02.05.2014, 01:3635359356059 lần
11
Re: Sổ tay học làm Thơ – Điểm:
LÝ THUYẾT CƠ BẢN
I/- Nguyên âm, phụ âm và dấu
1. Nguyên âm và phụ âm
Tiếng Việt gồm có 10 nguyên âm (a, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y), 2 bán nguyên âm (ă, â), 16 phụ âm đơn (b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, r, s, t, v, x), 9 phụ âm kép (ch, gi, kh, ng, nh, ph, qu, th, tr) không kể các phụ âm gh, ngh vì chữ h thêm vào chỉ có hình thức mà không đọc.
2. Dấu
Trong tiếng Việt có: không dấu, huyền (`), sắc (‘), nặng (.), hỏi (?), ngã (~).
II/- Âm
Âm là gốc của một chữ sau khi bỏ các phụ âm ở đầu chữ và các dấu, được cấu tạo bởi 1 hoặc nhiều chữ cái, bắt đầu bằng một hay nhiều nguyên âm và có thể kết thúc bằng một hay nhiều phụ âm.
Ví dụ :
– Ta, Là, Má, Hạ, Cả, Xã : các chữ này đều mang âm “a” nhưng khác phụ âm đầu và dấu.
– Vương, Trường, Hướng, Lượng, Tưởng, Dưỡng : đều cùng âm “ương” nhưng khác phụ âm đầu và dấu.
III/- Thanh
Thanh là sự khác nhau trong cách phát âm, cũng là sự khác nhau trong độ cao thấp của một âm.
Thanh được chia thành 2 nhóm : Bằng và Trắc.
1. Bằng:
Gồm các chữ không dấu hoặc có dấu huyền
– Phù bình thanh : các chữ không dấu, ví dụ: anh luôn yêu em.
– Trầm bình thanh : các chữ có dấu huyền, ví dụ: đời người buồn nhiều.
2. Trắc:
Gồm các chữ có dấu sắc, nặng, hỏi ngã
– Trầm thượng thanh : các chữ có dấu hỏi, ví dụ: giả sử tưởng.
– Phù thượng thanh : các chữ có dấu ngã, ví dụ: sẽ vẫn mãi.
– Trầm khứ thanh : các chữ có dấu nặng, ví dụ: hẹn đợi mộng.
– Trầm nhập thanh: các chữ có dấu nặng mà tận cùng là phụ âm c, ch, p, t. Ví dụ: mật cực ngọt.
– Phù khứ thanh : các chữ có dấu sắc, ví dụ: cứ nhớ đấy.
– Phù nhập thanh: các chữ có dấu sắc mà tận cùng là phụ âm c, ch, p, t. Ví dụ: sắp hết thích.
Nôm na có thể hiểu: các dấu huyền, nặng, hỏi là thanh “trầm”, còn không dấu, dấu sắc và ngã là thanh “bổng”. Trong mỗi câu, ta nên sắp xếp phân bổ các thanh trầm bổng để tạo âm điệu du dương cho bài thơ.
Ví dụ một vài trường hợp các thanh xếp từ thấp đến cao :
– nhạc, nhạng, nhảng, nhàng, nhang, nháng, nhãng, nhác
– thịch, thịnh, thỉnh, thình, thinh, thính, thĩnh, thích
– ngọt, ngọn, ngỏn, ngòn, ngon, ngón, ngõn, ngót
– sập, sậm, sẩm, sầm, sâm, sấm, sẫm, sấp
IV/- Vần (vận)
Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Đây là một quy luật để nối các câu trong bài thơ với nhau. Thường vần được dùng để nối câu gieo vào chữ cuối cùng của câu thơ.
Những chữ được gọi là vần với nhau khi chúng có cùng âm và chung một nhóm thanh.
Ví dụ :
– anh, đành, tranh, hành : vần với nhau.
– ánh, lạnh, bảnh, rãnh : vần với nhau.
Nhưng : anh và ánh thì không vần với nhau.
1. Chính vận :
Chính vận là các chữ hoàn toàn có cùng âm và nhóm thanh.
Ví dụ: t
ình
– x
inh
, l
ái
– h
ại
– tr
ải
– m
ãi
…
2. Thông vận :
Thông vận (vần thông) là các chữ có âm đọc gần giống nhau nhưng viết khác nhau.
Ví dụ: h
òa
– c
a
, t
ình
– th
anh
, đ
ầy
– t
ay
, b
ật
– t
ắt
, l
ỗi
– t
ủi
…
* Một số vần thông với nhau :
– Các chữ ă, â đi cùng phụ âm sau nó thì thông vần với nhau. Ví dụ: ăng – âng, ắt – ất …
– Vần bằng :
a – ơ
e – ê – i
o – ô – u
ơ – ư
ai – ay – ây
ai – oi – ôi – ơi – ươi – ui
ao – eo – êu – iêu – iu – ưu
am – ơm
an – ơn
êm – im
on – un
ăn – ân – uân
en – in – iên – uyên
on – ôn – uôn
ang – ương
ăng – âng – ưng
anh – ênh – inh – oanh – uynh
ong – ông – ung
uông – ương
– Vần trắc :
é – ị
ổ – ũ
ọ – ủa
ỗ – ữa
ạc – ước
ạm – ợm
áo – iễu
ấc – ực
ật – ứt
ĩa – uệ
ít – uyết
ói – ủi
ỗi – ụi
út – uốt
óng – úng
V/ Gieo vần
1. Cước vận (vần chân)
: Cước vận là các vần nằm ở cuối câu, nghĩa là các chữ ở cuối câu vần với nhau. Đa số các thể thơ đều là cước vận.
2. Yêu vận (vần lưng) :
Yêu vận là vần được gieo ở giữa câu, nghĩa là chữ cuối của câu trên vần với một chữ nằm ở giữa câu dưới, như thể thơ lục bát, song thất lục bát.
3. Các kiểu gieo vần thông dụng :
– Vần tiếp (liên vận) : chữ cuối của 2 câu liên tiếp vần với nhau và các cặp bằng trắc xen kẽ tiếp nhau. Ví dụ :
Bé làm cô giáo
Dạy chữ cho ba
Đọc nào chữ a
Ngoan cô cho kẹo
Đang dạy nhõng nhẽo
Đòi bế đi chơi
Yêu cô bằng trời
Muốn gì được nấy
(TN)
– Vần chéo (cách vận) : chữ cuối 2 câu cách nhau có vần với nhau. Trong một khổ 4 câu, chữ cuối câu 1 vần với câu 3 và chữ cuối câu 2 vần với câu 4. Ví dụ :
Mưa ơi sao rơi mãi
Mẹ vẫn chưa về mà
Đường làng trơn bước ngại
Lắc lẻo cầu khó qua
(TN)
Hoặc chỉ cần chữ cuối câu 2 và câu 4 vần với nhau. Ví dụ :
Anh có hiểu vầng dương chưa tắt nắng
Mây đã buồn tím ngắt cuối trời xa
Lòng thổn thức bước chân sầu đơn lẻ
Chờ đợi anh góc phố buổi chiều tà
(TN)
– Vần ôm : trong 1 khổ thơ 4 câu, chữ cuối câu 1 vần với chữ cuối câu 4 và chữ cuối câu 2 vần với chữ cuối câu 3.
Ví dụ :
Những ngày chưa có anh
Tuổi hồn nhiên trong trắng
Như trời mơ ươm nắng
Lẫn trong ngàn mây xanh
(AT)
– Vần 3 tiếng : chữ cuối các câu 1, 2 và 4 của khổ thơ vần với nhau. Ví dụ :
Hiền lành đứng đắn lại bô trai
Giỏi chữ hay văn quả lắm tài
Bút trải vần tiên cài ngõ mận
Thơ lồng tiếng hạc giắt đường mai
Tìm kiếm với từ khoá:
Share
An Nhiên Chi Lạc, Hoa Mùa Hạ, Mymk
3 thành viên đã gởi lời cảm ơn Nminhngoc1012 về bài viết trên:
26.10.2016, 09:58
Nminhngoc1012
V.I.P
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36
Tuổi: 35
Bài viết: 35935
Được thanks: 6059 lần
Điểm:
9.62
02.05.2014, 01:3635359356059 lần
11
Re: Sổ tay học làm Thơ – Điểm:
THƠ LỤC BÁT
Nói đến thơ Lục Bát là nói đến một sản phẩm văn hoá tinh thần độc đáo của dân tộc Việt. Hầu hết những người làm thơ đều đã ít nhất một lần làm thơ Lục Bát. Đã có nhiều tác giả trở thành nổi tiếng với những tác phẩm thơ lục bát mà tiêu biểu nhất là Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều, sau này có Nguyễn Bính, Tố Hữu, Huy Cận, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn… cũng đã gặt hái được thành công từ thể thơ Lục Bát.
Thiết nghĩ tìm hiểu đôi điều về thể thơ Lục Bát cũng là điều cần thiết cho cả người làm thơ và công chúng yêu thơ.
1- Thơ Lục Bát là gì?
Thơ Lục Bát là thể văn vần mỗi cặp gồm một câu sáu tiếng và một câu tám tiếng liên tiếp nhau. Thông thường bài thơ mở đầu bằng câu sáu chữ và kết thúc bằng câu tám chữ.
Một bài thơ Lục Bát thường không bị giới hạn bởi số câu, có thể gồm hai câu nhưng cũng có thể kéo dài tới hàng ngàn câu như Truyện Kiều của Nguyễn Du với 3254 câu (1627 câu lục và 1627 câu bát).
2- Thơ Lục Bát có tự bao giờ?
Người ta đã cất công đi tìm lời giải cho câu hỏi này. Song đáp án vẫn chỉ là những giả thuyết. Bởi Lục Bát xa xưa được lưu truyền tới ngày nay thông qua hình thức truyền miệng nên thật khó có được văn bản Lục Bát đầu tiên.
Nhưng có điều chắc chắn rằng: “Lục Bát là đứa con cưng của tiếng Việt, tiếng Việt đã nuôi lớn Lục Bát; đồng thời chính Lục Bát cũng đã góp phần làm cho tiếng Việt hay hơn, đẹp hơn”.
3- Luật thanh trong thơ Lục Bát
Cũng như thơ Đường luật, thơ Lục Bát tuân thủ quy tắc “nhất, tam, ngũ bất luận; tứ, nhị, lục phân minh”. Nghĩa là các tiếng 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ.
Thanh gồm có Trầm Bình Thanh và Phù Bình Thanh. Trầm Bình Thanh là những tiếng hay chữ có dấu huyền. Ví dụ: là, lòng, phòng… Phù Bình Thanh là những tiếng hay chữ không có dấu. Ví dụ: nhau, đau, mau… Trong câu 8, hai chữ thứ 6 và thứ 8 luôn luôn ở vần Bằng, nhưng không được có cùng một thanh. Có như thế, âm điệu mới êm ái và dễ nghe. Nếu chữ thứ 6 thuộc Phù Bình Thanh thì chữ thứ 8 phải thuộc Trầm Bình Thanh, và ngược lại.
Ví dụ:
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
(Ghi chú: là thuộc Trầm Bình Thanh, nhau thuộc Phù Bình Thanh).
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
(Ghi chú: đau thuộc Phù Bình Thanh, lòng thuộc Trầm Bình Thanh).
– Câu lục: theo thứ tự tiếng 2-4-6 là
Bằng (B) – Trắc (T) – Bằng
– Câu bát: theo thứ tự tiếng 2-4-6-8 là
B – T – B – B
Ví dụ 1:
Tôi
nghe
nẫu
cả
những
chiều
B T B
Câu
thơ
ngã
xuống
đổ
xiêu
mái
chùa
.
B T B B
(Cuốc kêu – Đồng Đức Bốn)
Ví dụ 2:
Nắng
chia
nửa
bãi
chiều
rồi
B T B
Vườn
hoang
trinh
nữ
khép
đôi
lá
rầu
.
B T B B
(Ngậm ngùi – Huy Cận)
Thế nhưng đôi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thể biến nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên, còn câu bát lại theo thứ tự
T – B – T – B
những câu thơ như thế này người ta gọi là Lục Bát biến thể.
Ví dụ:
Có
sáo
thì
sáo
nước
trong
T T B
Đừng
sáo
nước
đục
đau
lòng
cò
con
.
T T B B
(Ca dao)
hay:
Con
cò
lặn
lội
bờ
sông
B T B
Gánh
gạo
nuôi
chồng
tiếng
khóc
nỉ
non
.
T B T B
(Ca dao)
4- Cách gieo vần trong thơ Lục Bát
* Về vần: Có hai loại vần là vần chính và vần thông.
– Vần chính còn gọi là “vần giầu” hoặc “vần sát” gồm những tiếng cùng một khuôn âm như “ao” với “sao”, “mờ” với “tơ”, “tơ” với “chờ”…
Ví dụ:
Đêm qua ra đứng bờ
ao
Trông cá cá lặn, trông
sao
sao
mờ
Buồn trông con nhện giăng
tơ
Nhện ơi nhện hỡi, nhện
chờ
mối ai?
(Ca dao)
– Vần thông còn gọi là “vần nghèo” hoặc “vần gượng”, gồm những tiếng hợp nhau về thanh nhưng chỉ tương tự với nhau về âm như “đình” với “cành”, “sen” với “xin”…
Ví dụ:
Hôm qua tát nước đầu
đình
Bỏ quên chiếc áo trên
cành
hoa
sen
Em được thì cho anh
xin
Hay là em để làm tin trong nhà…
(Ca dao)
* Gieo vần trong thể thơ Lục Bát như sau:
– Chữ cuối của câu lục phải vần với chữ thứ sáu của câu bát tiếp theo.
– Chữ cuối của câu bát phải cùng vần với chữ cuối của câu lục kế tiếp.
Ví dụ:
Lần đầu ta ghé môi
hôn
Những con ve nhỏ hết
hồn
kêu
vang
Vườn xanh, cỏ biếc, trưa
vàng
Nghìn cây phượng vĩ huy
hoàng
trổ
bông
.
(Nụ hôn đầu – Trần Dạ Từ)
Trong thể thơ Lục Bát biến thể cách gieo vần cũng không thay đổi, nhưng trường hợp câu bát của cặp câu có thanh là
T – B – T – B
thì tiếng thứ sáu câu lục trên nó vần với tiếng thứ tư của câu đó.
Ví dụ:
Con cò mà đi ăn
đêm
Đậu phải cành
mềm
lộn cổ xuống ao.
(Ca dao)
5- Tiểu đối trong thơ Lục Bát
Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ sáu (hoặc thứ tư) của câu bát với tiếng thứ tám câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại.
Ví dụ:
Đèo cao con suối ngập ngừng
Nắng thoai thoải nắng, chiều
lưng
lửng
chiều
.
(Rừng chiều – Nguyễn Bính)
hay:
Nhà quê có cái giếng đình
Trúc xinh cứ đứng một
mình
lẳng
lơ
.
(Đồng Đức Bốn)
6- Cách ngắt nhịp trong thơ Lục Bát
Nhịp thơ là cái được nhận thức thông qua toàn bộ sự lặp lại có tính chu kỳ, cách quãng hoặc luân phiên theo thời gian của những chỗ ngừng, chỗ ngắt và của những đơn vị văn bản như câu thơ, khổ thơ, thậm chí đoạn thơ.
Nhịp thơ giúp người nghe, người đọc cảm nhận được thơ một cách chính xác hơn. Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn là 2/4 (2/2/2, 4/2) hoặc 4/4 (2/2/4, 2/2/2/2, 4/2/2).
Ví dụ:
Trời mưa ướt bụi/ ướt bờ
Ướt cây/ ướt lá/ ai ngờ ướt em .
(Ca dao)
Này chồng/ này mẹ/ này cha
Này là em ruột/ này là em dâu.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Nhưng đôi khi để nhấn mạnh hay diễn tả những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột, tâm trạng khác thường, bất định… thì người ta đổi thành nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5…
Ví dụ:
Người quốc sắc/ kẻ thiên tài
Tình trong như đã/ mặt ngoài còn e
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Buồng không/ lặng ngắt như tờ
Dấu xe ngựa/ đã rêu lờ mờ xanh.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
7- Những khuyết điểm thường gặp ở một số bài Lục Bát và cách khắc phục
Làm một bài thơ Lục Bát thì dễ, nhưng làm một bài thơ Lục Bát hay thì khó vô cùng. Nguyên nhân:
– Thơ Lục Bát là thể thơ có nhiều vần bằng. Theo luật trên thì trong mười bốn chữ của một cặp thơ thì chỉ có 5 chữ là tiếng trắc. Vì vậy, nếu không khéo, bài thơ dễ trở nên nghèo nàn về giai điệu và mang vẻ ê a của những bài vè.
– Diện tích của một cặp thơ quá rộng, trong phạm vi 14 chữ nhà thơ dễ có khuynh hướng kể lể dài dòng. Do đó dẫn tới việc lạm dụng vai trò đẩy đưa của câu lục khiến câu thơ trở thành thừa thãi và bài thơ bị loãng hoặc sử dụng vá víu bốn chữ cuối của câu bát.
Ngoài hai nguyên nhân trên, do đòi hỏi phải gieo cùng vần ở chữ cuối câu bát, chữ cuối câu lục kế tiếp, rồi chữ thứ sáu của câu bát tiếp theo khiến nhiều lúc nhà thơ bị lúng túng trong lúc chọn chữ nên dễ phải chọn chữ gượng gạo để đáp ứng quy luật. Chỉ cần vài ba chữ gượng gạo cũng đủ làm hỏng bài thơ.
Để khắc phục những khuyết điểm trên người làm thơ cần:
– Cố gắng biến câu lục thành một câu độc lập để tránh nguy cơ câu thơ bị thừa thãi.
– Thỉnh thoảng nên dùng tiểu đối trong cả hai câu, đặc biệt là câu bát. Tiểu đối là hình thức đối xứng trong một câu thơ. Theo hình thức này, câu thơ được chia thành hai vế bằng nhau, 3/3 cho câu lục và 4/4 cho câu bát.
Ví dụ:
Mai cốt cách/ tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ/ mười phân vẹn mười.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
hoặc:
Vầng trăng ai sẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc/ nửa soi dặm trường.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
– Cố gắng cô đọng bài thơ, tránh khuynh hướng kéo dài lê thê.
– Không nên câu nệ quá đáng về vần, vần chính cũng hay mà vần thông cũng tốt miễn là câu thơ trôi chảy tự nhiên không bị gò bó.
– Bài thơ phải gây được cảm xúc cho người đọc.
8- Có nên làm mới thơ Lục Bát?
Làm thơ nói chung, bản chất của nó là công việc sáng tạo. Cho nên đổi mới thơ cũng là điều cần thiết. Điều này đã được thể hiện rõ qua tiến trình phát triển của thơ ca các thời kỳ.
Song đối với các thể thơ như thơ Đường luật, Lục Bát, Song Thất Lục Bát… có quy định niêm luật chặt chẽ nói không nên là chưa hẳn đúng, mà nói nên ta sẽ đứng trước yêu cầu đổi mới như thế nào, đổi mới nội dung hay đổi mới hình thức.
Hiện nay có khá nhiều người dụng công làm mới hình thức thơ Lục Bát bằng cách lên xuống dòng mang tính thủ pháp nhưng cũng có người cố tình lên xuống dòng một cách tuỳ tiện gây phản cảm cho người đọc. Có nhiều người chịu khó tìm tòi sử dụng ngôn từ mới, nhưng cũng không ít người quen sử dụng những từ ngữ sáo mòn… Về nội dung, cũng có rất nhiều người làm thơ đưa những vấn đề mới của đất nước, của thời đại vào thơ, nhưng cũng có người vẫn mải miết với chuyện muôn năm cũ…
Tôn trọng và khuyến khích mọi khả năng sáng tạo là trách nhiệm và lương tâm của toàn xã hội. Đối với thơ Lục Bát, những sáng tạo tích cực luôn được độc giả đón nhận một cách trân trọng.
“Nên hay không nên làm mới thơ Lục Bát?” Câu hỏi này bỏ ngỏ cho người làm thơ Lục Bát cũng như công chúng yêu thơ Lục Bát.
Những năm gần đây, nhiều nhà thơ, nhà văn và những người tâm huyết vơí thơ Lục Bát đã nghĩ tới một ngày nào đó thơ Lục Bát sẽ được công nhận là “Quốc thơ”, sẽ được công nhận là “Di sản văn hoá thế giới”. Như một lẽ tự nhiên, những tâm hồn Việt chân chính luôn ủng hộ ý định này.
Người thực hiện bài viết này chỉ nói lại những điều mà các học giả, các nhà thơ, nhà văn đã nói, đã viết. Hy vọng nâng thêm được phần nào tình yêu của bạn đọc dành cho thơ Lục Bát cũng là thỏa nguyện lắm rồi.
Tìm kiếm với từ khoá:
Share
An Nhiên Chi Lạc, Hoa Mùa Hạ, Mymk, Tĩnh Tâm
4 thành viên đã gởi lời cảm ơn Nminhngoc1012 về bài viết trên:
26.10.2016, 15:51
Nminhngoc1012
V.I.P
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36
Tuổi: 35
Bài viết: 35935
Được thanks: 6059 lần
Điểm:
9.62
02.05.2014, 01:3635359356059 lần
11
Re: Sổ tay học làm Thơ – Điểm:
THƠ SONG THẤT LỤC BÁT
Thơ song thất lục bát (hai 7+6-8), cũng được gọi là lục bát gián thất (6-8 xen hai 7) hay thể ngâm là một thể văn vần (thơ) đặc thù của văn chương Việt Nam. Một số tác phẩm lớn trong văn chương Việt Nam, trong đó có bản dịch Chinh Phụ Ngâm ra quốc âm đã được viết theo thể thơ này.
1. Thanh
Luật thanh không phải ở các từ 2-4-6 như các thể thơ khác mà lại chú ý vào các tiếng 3-5-7.
Câu thất 1: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là T-B-T
Câu thất 2: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là B-T-B
Các tiếng 1-2-4-6 tự do về thanh.
Ví dụ:
Lòng này
gửi
gió
đông
có
tiện
T B T
Nghìn vàng
xin
gửi
đến
non
yên
B T B
Bảng chính luật Thơ song thất lục bát được viết như sau
x – t – T – b – B – t – T
x – b – B – t – T – b – B
b – B – t – T – b – B
b – B – t – T – b – B – t – B
Nhưng bản luật mà chúng ta thường dùng là
x – x – x – x – B – x – T(v)
x – x – B – x – T(v) – x – B(v*)
x – B – x – T – x – B(v*)
x – B – x – T – x – B(v*) – x – B(v**)
hoặc
x – x – t – x – b – x – T
x – x – b – x – T – x – B
x – b – x – t – x – B
x – b – x – t – x – B – t – B
x – x – t/B – x – B/b – x – T
x – x – b – x – T – x – B
x – b – x – t – x – B
x – b – x – t – x – B – t – B
Trong đó: (v) = vần
B = bằng, T = trắc
x = là chữ không tính, bằng hay trắc gì cũng được
Chữ in hoa: Chữ phải giữ vần
Ghi chú: Chữ thứ bảy của câu bát tuy bất luận, nhưng chúng ta nên dùng một chữ trắc, âm điệu sẽ hay hơn.
2. Vần
Về luật vần ở câu lục và bát thì hoàn toàn là giống thơ lục bát, không đề cập đến. Ở đây chỉ đề cập đến hai câu thất.
Xin được tóm tắt gọn như sau, để giúp các bạn nhanh chóng nắm bắt được các bí quyết của thể loại này :
Chữ thứ 5 câu 7 đầu tiên vần Bằng (B).
Chữ cuối câu 7 đầu tiên ở vần Trắc(T), ăn vần với chữ thứ 5 của câu 7 thứ nhì (cũng vần Trắc)
Chữ cuối câu 7 thứ nhì vần Bằng, ăn vần với chữ cuối câu 6 (vần Bằng)
Chữ cuối câu 6 vần Bằng , ăn vần với chữ thứ 6 câu 8 (vần Bằng)
Chữ cuối câu 8 vần Bằng , lại ăn vần với chữ thứ 3 hoặc chữ thứ 5 của câu 7 đầu tiên trong khổ thơ tiếp theo. Chữ thứ 5 này vần Bằng. Chữ thứ 3 linh động hơn, khi ăn vần với câu trước thì phải là vần Bằng, nếu không ăn vần với câu trước thì Trắc, Bằng gì cũng được.
(trích Thi Pháp – Hàn Sĩ Nguyên)
Về cách gieo vần cũng khác các thể thơ khác. Các thể thơ khác chỉ gieo vần ở thanh bằng, nhưng thơ song thất lục bát gieo vần ở cả tiếng thanh trắc và thanh bằng.
Ví dụ:
Lòng này gửi gió đông có
tiện
Nghìn vàng xin gửi
đến
non
Yên
Non Yên dù chẳng tới
miền
Nhớ chàng đằng đẳng đường
lên
bằng
trời
Trời thăm thẳm xa
vời
khôn thấu…
Một đoạn song thất lục bát tiêu biểu với “yêu vận” và “cước vận” in đậm:
Thuở trời đất nổi cơn gió
bụi
Khách má hồng nhiều
nỗi
truân
chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng
trên
Nào ai gây dựng cho
nên
nỗi
này
Trống Trường Thành lung
lay
bóng
nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ
mịt
khúc
mây
Chín tầng gươm báu trao
tay
Nửa đêm truyền hịch đợi
ngày
xuất chinh
(Chinh Phụ Ngâm)
3. Đối trong thể Song Thất Lục Bát
Thể thơ này không bắt buộc phải có các cặp đối, nhưng hai câu thất, số chữ bằng nhau, nên các bạn có thể viết thành một cặp đối.
Tiểu đối:
Câu
cẩm
–
tú
đàn anh họ Lý
Nét
đan
–
thanh
bậc chị chàng Vương
Mùi
phú
–
quí
nhử làng
xa
–
mã
,
Bả
vinh
–
hoa
lừa gã
công
–
khanh
Cầu
Thệ
–
thủy
ngồi trơ
cổ
–
độ
Quán
Thu
–
phong
đứng rũ
tà
–
huy
(Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều)
Đối câu:
Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
Chàng thì đi cõi xưa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
(Chinh phụ ngâm khúc )
4. Ngắt nhịp
Cách ngắt nhịp trong 2 câu thất của thơ này là nhịp lẻ, tức là nhịp 3/4 hay là 2/1/4.
Tìm kiếm với từ khoá:
Share
An Nhiên Chi Lạc, Mymk
2 thành viên đã gởi lời cảm ơn Nminhngoc1012 về bài viết trên:
27.10.2016, 12:50
Nminhngoc1012
V.I.P
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36
Tuổi: 35
Bài viết: 35935
Được thanks: 6059 lần
Điểm:
9.62
02.05.2014, 01:3635359356059 lần
11
Re: Sổ tay học làm Thơ – Điểm:
THƠ THẤT NGÔN TỨ TUYỆT
Thơ tứ tuyệt đã có từ lâu, trước khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú. Đầu tiên, thơ tứ tuyệt có nghĩa khác với nghĩa hiện tại: “tứ” là bốn và “tuyệt” có nghĩa là tuyệt diệu. Bài thơ chỉ có 4 câu mà diễn tả đầy đủ ý nghĩa của tác giả muốn trình bày nên người ta mới gọi 4 câu thơ đó là tứ tuyệt.
Tuy nhiên, sau khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú (luật thi) vào đời nhà Đường, thì thơ tứ tuyệt lại phải được làm theo quy tắc về niêm, vần, luật, đối của lối thơ thất ngôn hay ngũ ngôn bát cú. Vì vậy, sau nầy người ta giải thích chữ “tuyệt” là ngắt hay dứt. Nghĩa là thơ tứ tuyệt là do người ta làm theo cách ngắt lấy 4 câu trong bài bát cú để làm ra bài tứ tuyệt. Do đó niêm, vần, luật, đối của bài tứ tuyệt phải tùy theo cách ngắt từ bài bát cú mà thành.
Thơ tứ tuyệt có 2 thể là
luật trắc vần bằng
và
luật bằng vần bằng
.
Mỗi thể đều có một Bảng Luật coi như “công thức” căn bản mà người làm thơ phải tuân theo.
1. TỨ TUYỆT LUẬT TRẮC VẦN BẰNG (không đối)
Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng:
BẢNG LUẬT:
T – T – B – B – T – T – B (vần)
B – B – T – T – T – B – B (vần)
B – B – T – T – B – B – T
T – T – B – B – T – T – B (vần)
Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn (trước khó sau dễ).
Các chữ cuối của các câu 1-2-4 bắt buộc phải cùng vần với nhau.
Bài thơ thí dụ để minh họa:
1. Thuở ấy tuy còn tuổi ấu thơ
Mà sao vẫn nhớ đến bây giờ
Xuân về nũng nịu đòi mua pháo
Để đón giao thừa thỏa ước mơ
(Hoàng Thứ Lang)
2. Dõi mắt tìm ai tận cuối trời
Thu về chiếc lá ngậm ngùi rơi
Cay cay giọt lệ sầu chan chứa
Mộng ước tình ta đã rã rời
(Hoàng Thứ Lang )
3. Một nửa vầng trăng rụng xuống cầu
Đôi mình cách trở bởi vì đâu
Canh tàn khắc lụn hồn tê tái
Đối bóng đèn khuya nuốt lệ sầu
(Hoàng Thứ Lang )
2. TỨ TUYỆT LUẬT BẰNG VẦN BẰNG (không đối)
Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng:
BẢNG LUẬT:
B – B – T – T – T – B – B (vần)
T – T – B – B – T – T – B (vần)
T – T – B – B – B – T – T
B – B – T – T – T – B – B (vần)
Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn (trước khó sau dễ).
Các chữ cuối của các câu 1-2-4 bắt buộc phải cùng vần với nhau.
Bài thơ thí dụ để minh họa:
1. Đôi mình cách biển lại ngăn sông
Dõi mắt tìm nhau nhỏ lệ hồng
Ngắm ánh trăng thề thương kỷ niệm
Đêm trường thổn thức nhớ mênh mông
(Hoàng Thứ Lang )
2. Đêm nghe tiếng gió nhớ miên man
Mộng ước tình ta đã lụn tàn
Thánh thót hiên ngoài mưa rả rích
Mi buồn lệ ứa mãi không tan
(Hoàng Thứ Lang )
3. Rừng phong nhuộm tím cả khung trời
Lá úa lìa cành gió cuốn rơi
Lối cũ đường xưa em đếm bước
Miên man kỷ niệm đã xa vời
(Hoàng Thứ Lang )
Sau đây là Luật về Điệu thơ:
Điệu thơ là cách xếp đặt các tiếng trong câu thơ sao cho êm tai dễ đọc để bài thơ có âm hưởng du dương trầm bổng như nhạc điệu.
Điệu thơ gồm có 3 phần chính như sau:
1. Nhịp điệu: thơ ĐL nhịp chẵn, ngắt nhịp 2 hoặc 4 tiếng trọn nghĩa.
2. Âm điệu: nên làm theo chính luật để bài thơ có âm điệu êm tai trầm bổng.
3. Vần điệu: nên gieo vần ở cuối các câu 1-2-4-6-8 xen kẻ tiếng không có dấu và tiếng có dấu huyền để bài thơ khi đọc lên nghe du dương trầm bổng như điệu nhạc. Ngoài ra chúng ta nên cố gắng gieo vần chính vận. Sau nầy khi “nhuyễn” rồi chúng ta có thể theo thông vận và theo luật bất luận. Muốn cho bài thơ có âm điệu hay thì tiếng thứ 4 và tiếng thứ 7 của những câu luật trắc vần bằng không nên dùng trùng một thanh bằng. Nghĩa là nếu tiếng thứ 4 không dấu thì tiếng thứ 7 phải dấu huyền và ngược lại. Tuy nhiên nếu không tìm được từ nào khác có ý nghĩa hay hơn thì chúng ta dùng trùng cũng được mà vẫn không bị sai luật thơ.
THƠ TỨ TUYỆT VẦN BẰNG – 2 VẦN
Thơ Tứ Tuyệt Vần Bằng 2 vần cũng có hai thể:
– Luật Trắc Vần Bằng.
– Luật Bằng Vần Bằng.
Đầu tiên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng – 2 vần.
Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng – 2 vần:
1. THƠ TỨ TUYỆT LUẬT TRẮC VẦN BẰNG – 2 VẦN (KHÔNG ĐỐI)
BẢNG LUẬT:
T – T – B – B – B – T – T
B – B – T – T – T – B – B (vần)
B – B – T – T – B – B – T
T – T – B – B – T – T – B (vần)
Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn.
Các tiếng cuối của các câu 2 và 4 bắt buộc phải cùng vần với nhau.
Trước khi đi vào chi tiết của bài Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng – 2 vần, chúng ta thử cùng nhau ngắt bài thơ Thất Ngôn Bát Cú ra thành nhiều bài Tứ Tuyệt để “nghiên cứu” và phân tích.
Bài thơ Thất Ngôn Bát Cú có thể ngắt thành 4 bài thơ Tứ Tuyệt theo 4 cách như sau:
– Bài 1: 4 câu đầu (1-4).
– Bài 2: 4 câu cuối (5-8 ).
– Bài 3: 4 câu giữa (3-6).
– Bài 4: 2 câu đầu (1-2) và 2 câu cuối (7-8 ).
Thí dụ: bài thơ sau đây:
THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
(Bà Huyện Thanh Quan )
Ngắt ra:
1. Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
2. Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
3. Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
4. Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
Nhận xét:
Bài 1: Tứ Tuyệt 3 vần bằng.
Bài 2: Tứ Tuyệt 2 vần bằng.
Bài 3: Tứ Tuyệt 2 vần bằng.
Bài 4: Tứ Tuyệt 3 vần bằng.
Như vậy bài thơ Tứ Tuyệt có loại 3 vần và có loại 2 vần.
Phân tích kỹ hơn, chúng ta nhận thấy một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật là do hai bài thơ Tứ Tuyệt ghép lại mà thành, 4 câu đầu là Tứ Tuyệt 3 vần, 4 câu sau là Tứ Tuyệt 2 vần. Điểm đặc biệt đáng lưu ý là 4 câu giữa (3-4-5-6) đối nhau từng cặp một (câu 3-4 đối nhau, câu 5-6 đối nhau) theo phép đối thơ loại 7 chữ (còn gọi là đối ngẫu).
Nếu chỉ làm thơ Tứ Tuyệt thường thì chúng ta không cần làm có đối. Nếu làm thơ Thất Ngôn Bát Cú thì bắt buộc phải có đối như đã nói trên.
Dừng lại ở thơ Tứ Tuyệt, chúng ta có thể làm nhiều bài thơ Tứ Tuyệt cùng diễn tả chung một ý (một nội dung) gọi là Tứ Tuyệt Trường Thiên, dài bao nhiêu cũng được, nhưng nên ngắt ra từng đoạn, mỗi đoạn 4 câu. Muốn làm loại 3 vần cũng được (như bài thơ Hai Sắc Hoa Ti-gôn của T.T.Kh.). Muốn làm loại 2 vần cũng được (như bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím của Kiên Giang Hà Huy Hà). Muốn làm lẫn lộn (mixed) vừa 3 vần vừa 2 vần cũng được.
Bây giờ trở lại ý chính của bài Tứ Tuyệt 2 vần bằng. Vì chưa làm thơ Thất Ngôn Bát Cú nên chúng ta chỉ làm thơ Tứ Tuyệt không có đối (tương tự như loại 3 vần mà chúng ta đã làm ở bài 1).
Vậy chúng ta cùng nhau bắt đầu làm bài thực hành
BẢNG LUẬT:
T – T – B – B – B – T – T
B – B – T – T – T – B – B (vần)
B – B – T – T – B – B – T
T – T – B – B – T – T – B (vần)
Bài thơ thí dụ để minh họa:
1. Xác pháo còn vương màu mực tím
Thư tình vẫn thắm chữ yêu thương
Nhưng ai lại nỡ quên thề ước
Nước mắt nào vơi nỗi đoạn trường
(Hoàng Thứ Lang )
2. Đọc áng thơ sầu sa nước mắt
Nghe lời giã biệt giọt châu rơi
Trời cao nỡ đoạn tình đôi lứa
Kẻ nhớ người thương khổ cả đời
(Hoàng Thứ Lang )
3. Yến phượng lìa đàn ai oán thảm
Uyên ương lẻ bạn ngẩn ngơ sầu
Đôi ta cách trở ngàn sông núi
Ngắm mảnh trăng tàn lệ thấm bâu
(Hoàng Thứ Lang )
4. Nếu chẳng cùng em chung lối mộng
Anh vào cửa Phật nguyện tu hành
Chuông chiều mõ sớm quên tình lụy
Gởi lại am thiền mái tóc xanh
(Hoàng Thứ Lang )
2. TỨ TUYỆT LUẬT BẰNG VẦN BẰNG – 2 VẦN (KHÔNG ĐỐI)
BẢNG LUẬT:
B – B – T – T – B – B – T
T – T – B – B – T – T – B (vần)
T – T – B – B – B – T – T
B – B – T – T – T – B – B (vần)
Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn.
Các tiếng cuối của các câu 2 và 4 bắt buộc phải cùng vần với nhau.
Bài thơ thí dụ để minh họa:
1. Hè về đỏ thắm màu hoa phượng
Ánh mắt buồn tênh buổi bãi trường
Gạt lệ chia tay người mỗi ngã
Âm thầm cố nén giọt sầu thương
(Hoàng Thứ Lang )
2. Trên sông khói sóng buồn hiu hắt
Dõi mắt phương trời nhớ cố hương
Trắng xóa màn sương trời chớm lạnh
Thương ai khắc khoải đoạn can trường
(Hoàng Thứ Lang)
Tìm kiếm với từ khoá:
Share
Hoa Mùa Hạ, Mymk
2 thành viên đã gởi lời cảm ơn Nminhngoc1012 về bài viết trên:
01.11.2016, 13:10
Nminhngoc1012
V.I.P
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36
Tuổi: 35
Bài viết: 35935
Được thanks: 6059 lần
Điểm:
9.62
02.05.2014, 01:3635359356059 lần
11
Re: Sổ tay học làm Thơ – Điểm:
THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ
Thơ thất ngôn bát cú là loại thơ mỗi bài có 8 câu và mỗi câu 7 chữ, tức là chỉ có 56 chữ trong một bài thơ thất ngôn bát cú.
I. BỐ CỤC BÀI THƠ BÁT CÚ:
– Câu số 1 dùng để mở bài (gọi là phá đề), câu số 2 dùng để chuyển tiếp vào bài (gọi là thừa đề). Hai câu này có tên là hai câu đề.
– Hai câu 3 và 4 dùng để giải thích đề tài cho rõ ràng. Hai câu này có tên là hai câu trạng (có nơi gọi thuật hay thực).
– Hai câu 5 và 6 dùng để bàn rộng nghĩa đề tài và được gọi là hai câu luận.
– Hai câu 7 và 8 dùng để tóm ý nghĩa cả bài và được gọi là hai câu kết.
II. LUẬT BẤT LUẬN TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Người làm Thơ Đường Luật phải tuân theo những luật lệ bắt buộc rất gắt gao nghiêm ngặt. Mà đã là luật rồi thì không thể sai phạm, có như thế bài thơ mới chính thống. Nếu không sẽ bị lai căng thành ra một loại thơ tạp giống như thơ “tự do” ngày nay (nhái theo thơ Cổ phong ngày xưa).
Trong những luật lệ bắt buộc nói trên, có luật bằng trắc là cách sắp xếp âm điệu của bài thơ để nghe cho suông sẻ, êm tai, du dương, trầm bổng. Nếu không tuân theo luật nầy thì bài thơ đọc lên nghe rất chỏi tai, trắc trở, không hay. Tuy nhiên, để cho bớt gò bó trong việc tìm từ, kẹt ý … thí dụ như gặp phải những từ kép hay những danh từ riêng chỉ nhân danh, địa danh, điển tích … chúng ta không thể nào sửa đổi dấu giọng (bằng trắc) được. Do đó người xưa đã đặt ra Luật Bất Luận để “cởi trói” bớt cho người làm thơ. Theo bảng luật bất luận này thì:
– Các tiếng ở vị trí thứ 2-4-5-6-7 của mỗi câu bắt buộc phải tuân theo luật bằng trắc (chính luật) mà bảng luật đã ấn định.
– Các tiếng ở vị trí thứ 1 & 3 của mỗi câu không nhất thiết phải tuân theo luật bằng trắc mà bảng luật đã định. Tuy nhiên nên chú ý rằng mặc dù đã có luật bất luận nhưng tiếng nào theo luật định là trắc mà chúng ta làm bằng thì được, trái lại tiếng nào theo luật định là bằng mà chúng ta làm trắc thì không nên, đôi khi phạm phải lỗi “Khổ Độc” nữa. Vạn bất dắc dĩ, không tìm được tiếng nào hay hơn để thay thế thì chúng ta cũng có thể giữ y mà vẫn có thể chấp nhận được. Khi làm thơ càng cố gắng giữ đúng luật (chính luật) thì bài thơ càng hay về âm điệu. Bài thơ được đánh giá hay hay dở phần lớn là căn cứ vào các luật thơ, vì Thơ Đường Luật là Thơ Luật nghĩa là thơ phải làm theo luật. Bài thơ Đường Luật nếu bị sai luật dù cho nội dung, ý tứ, từ ngữ có hay cách mấy đi nữa thì cũng bỏ đi, không được chấp nhận.
Sau đây là Bảng Luật Bất Luận:
BẢNG LUẬT BẤT LUẬN THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ ĐƯỜNG LUẬT
LUẬT TRẮC:
t – T – b – B – T – T – B
b – B – t – T – T – B – B
b – B – t – T – B – B – T
t – T – b – B – T – T – B
t – T – b – B – B – T – T
b – B – t – T – T – B – B
b – B – t – T – B – B – T
t – T – b – B – T – T – B
LUẬT BẰNG:
b – B – t – T – T – B – B
t – T – b – B – T – T – B
t – T – b – B – B – T – T
b – B – t – T – T – B – B
b – B – t – T – B – B – T
t – T – b – B – T – T- B
t – T – b – B – B – T – T
b – B – t – T – T – B – B
Ghi chú: chữ b-t là không cần giữ đúng luật, chữ B-T là bắt buộc phải giữ đúng luật.
Ngoài ra Thơ Đường Luật là loại thơ “Độc Vận”, nghĩa là chỉ gieo một âm vần duy nhất xuyên suốt cả bài thơ, không nên chen lẫn vào dù chỉ một âm vần khác, hay dở là ở chỗ nầy. Tóm lại Thơ Đường Luật nên gieo vần theo Chính Vận mà không nên dùng Thông Vận, vì toàn bài thơ chỉ có 5 vần thôi, đâu đến đổi khó tìm. Tuy nhiên trong những trường hợp bất khả kháng, người làm thơ vẫn có thể được phép dùng thông vận, nhưng càng ít càng tốt.
III. LUẬT THƠ
Thơ thất ngôn bát cú có thể được làm theo hai luật:
luật bằng
và
luật trắc
. Về vần thì có hai loại:
vần bằng
và
vần trắc.
Tuy nhiên, các thi nhân thường hay làm theo vần bằng, tức là
luật bằng vần bằng
và
luật trắc vần bằng
.
1. THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ ĐƯỜNG LUẬT VẦN BẰNG
Như chúng ta đã biết, Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật vần bằng là do sự ghép lại của hai bài Thơ Tứ Tuyệt Đường Luật vần bằng có đối. Bốn câu đầu là Tứ Tuyệt 3 vần, bốn câu sau là Tứ Tuyệt 2 vần.
Thơ Thất Ngôn Bát Cú vần bằng có hai loại:
– Thất Ngôn Bát Cú 5 vần.
– Thất Ngôn Bát Cú 4 vần.
1.1 THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ 5 VẦN BẰNG
LUẬT BẰNG VẦN BẰNG:
– Luật bằng vần bằng là bài thơ mà tiếng thứ hai của câu đầu là tiếng bằng và các tiếng ở cuối các câu 1-2-4-6-8 phải vần với nhau và đều là vần bằng.
Sau đây là bảng luật thơ:
B – B – T – T – T – B – B (vần)
T – T – B – B – T – T – B (vần)
T – T – B – B – B – T – T (đối câu 4)
B – B – T – T – T – B – B (vần) (đối câu 3)
B – B – T – T – B – B – T (đối câu 6)
T – T – B – B – T – T- B (vần) (đối câu 5)
T – T – B – B – B – T – T
B – B – T – T – T – B – B (vần)
Ví dụ: TRUNG THU
Trăng thu toả sáng nhớ xa xăm
Tháng tám chờ trông đến bữa rằm
Mẹ dán lồng đèn chơi suốt sáng
Cha làm trống ếch đánh quanh năm
Xa rồi cảnh cũ lòng se lạnh
Tiếc mãi ngày xưa lệ ướt dầm
Chiếc lá chao mình trong gió sớm
Nghe chừng vọng lại thoáng dư âm
(Hoàng Thứ Lang )
LUẬT TRẮC VẦN BẰNG:
– Luật trắc vần bằng là bài thơ mà tiếng thứ hai của câu đầu là tiếng trắc và các tiếng ở cuối các câu 1-2-4-6-8 phải vần với nhau và phải là vần bằng.
Sau đây là bảng luật thơ:
T – T – B – B – T – T – B (vần)
B – B – T – T – T – B – B (vần)
B – B – T – T – B – B – T (đối câu 4)
T – T – B – B – T – T – B (vần) (đối câu 3)
T – T – B – B – B – T – T (đối câu 6)
B – B – T – T – T – B – B (vần) (đối câu 5)
B – B – T – T – B – B – T
T – T – B – B – T – T – B (vần)
Bài thơ thí dụ làm mẫu để minh họa: TRĂNG THỀ VƯỜN THÚY
Xót phận hồng nhan một Thúy Kiều
Trâm thề quạt ước lỗi hương yêu
Thanh lâu lịm kín đời xuân sắc
Kỷ viện vùi sâu nét diễm kiều
Gió Sở không vơi niềm tịch mịch
Mưa Tần chẳng bớt nỗi cô liêu
Xa xôi cách trở Kim lang hỡi
Có thấu lòng em tủi hận nhiều
(Hoàng Thứ Lang )
1.2 THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ ĐƯỜNG LUẬT 4 VẦN BẰNG
Bây giờ chúng ta làm quen với Thất Ngôn Bát Cú 4 vần bằng.
Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật 4 vần bằng là do sự ghép lại của hai bài Thơ Tứ Tuyệt 2 vần bằng có đối. Do đó tiếng cuối cùng của câu 1 phải là thanh trắc.
Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật 4 vần bằng có 3 cặp đối ngẫu:
– Câu 1 và 2 đối nhau.
– Câu 3 và 4 đối nhau.
– Câu 5 và 6 đối nhau.
Chỉ còn câu 7 và 8 không đối.
Sau đây là bảng luật thơ:
LUẬT TRẮC:
t – T – b – B – B – T – T (đối câu 2)
b – B – t – T – T – B – B (vần – đối câu 1)
b – B – t – T – B – B – T (đối câu 4)
t – T – b – B – T – T – B (vần – đối câu 3)
t – T – b – B – B – T – T (đối câu 6)
b – B – t – T – T – B – B (vần – đối câu 5)
b – B – t – T – B – B – T
t – T – b – B – T – T – B (vần)
Bài thơ thí dụ: TÌNH SẦU
Lất phất hiên buồn mưa rả rích
Vi vu ngõ vắng gió lao xao
Tình không chung mộng thiên thu nhớ
Duyên chẳng tròn mơ vạn cổ sầu
Kiếp khác đôi mình vui hội ngộ
Đời nầy hai đứa khổ xa nhau
Từng dòng lệ tủi lăn trên má
Thôi thế đành cam lỡ nhịp cầu
(Hoàng Thứ Lang )
LUẬT BẰNG:
b – B – t – T – B – B – T (đối câu 2)
t – T – b – B – T – T – B (vần – đối câu 1)
t – T – b – B – B – T – T (đối câu 4)
b – B – t – T – T – B – B (vần – đối câu 3)
b – B – t – T – B – B – T (đối câu 6)
t – T – b – B – T – T- B (vần – đối câu 5)
t – T – b – B – B – T – T
b – B – t – T – T – B – B (vần)
Bài thơ thí dụ: TƯƠNG TƯ
Âm thầm đếm giọt mưa buồn đổ
Lặng lẽ lau dòng lệ thảm rơi
Ngang trái yêu đương hờn cách trở
Lỡ làng mộng ước hận chia phôi
Canh tàn tưởng bóng sầu không cạn
Đêm vắng thương hình khổ khó vơi
Em hỡi xin chờ nhau kiếp khác
Đôi ta chung bước đẹp duyên đời
(Hoàng Thứ Lang )
*** Ghi chú quan trọng: Trên đây là bảng Luật Bất Luận. Tiếng thứ 1 và 3 của mỗi câu không cần phải giữ theo chính luật. Tuy nhiên nếu tiếng đáng trắc mà làm ra bằng thì không sao nhưng nếu tiếng đáng bằng mà làm ra trắc thì không nên. Tiếng thứ 5 của mỗi câu phải tuyệt đối giữ theo chính luật
2. THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ ĐƯỜNG LUẬT VẦN TRẮC
Về căn bản Niêm, Luật, Vần, Đối thì thơ Thất Ngôn Bát Cú Vần Trắc cũng giống y như thơ Thất Ngôn Bát Cú Vần Bằng. Nhưng chỉ khác một điểm là ngược lại, những tiếng cuối các câu 1-2-4-6-8 thay vì vần bằng thì ở đây lại là vần trắc, và những tiếng cuối các câu 3-5-7 thay vì trắc thì lại là bằng.
Đây là lối thơ cổ, có trước thơ vần bằng. Luật vần trắc thường được áp dụng trong thể Phú là một loại Cổ Văn.
Sau đây là bảng luật thơ:
LUẬT BẰNG:
b – B – t – T – B – B – T (vần)
t – T – b – B – B – T – T (vần)
t – T – b – B – T – T – B (đối câu 4)
b – B – t – T – B – B – T (vần – đối câu 3)
b – B – t – T – T – B – B (đối câu 6)
t – T – b – B – B – T – T (vần – đối câu 5)
t – T – b – B – T – T – B
b – B – t – T – B – B – T (vần)
Ghi chú: chữ t-b nhỏ không nhất thiết phải giữ đúng luật bằng trắc, nhưng nếu tiếng đáng trắc mà làm ra bằng thì được, trái lại tiếng đáng bằng mà làm ra trắc thì không nên. Các chữ T-B lớn phải tuyệt đối giữ đúng luật.
Bài thơ thí dụ để làm mẫu minh họa: THU
Thu về lá rụng cành xơ xác
Gió cuốn hoa tàn rơi lác đác
Cạnh suối nai vàng đứng nhởn nhơ
Bên hồ thỏ trắng nhìn ngơ ngác
Mù mù góc biển cặp chim âu
Mịt mịt chân trời đôi cánh hạc
Khói trắng bay hoài tận nẻo xa
Mưa buồn rả rích hòa cung nhạc
(Hoàng Thứ Lang )
LUẬT TRẮC:
t – T – b – B – B – T – T (vần)
b – B – t – T – B – B – T (vần)
b – B – t – T – T – B – B (đối câu 4)
t – T – b – B – B – T – T (vần – đối câu 3)
t – T – b – B – T – T – B (đối câu 6)
b – B – t – T – B – B – T (vần – đối câu 5)
b – B – t – T – T – B – B
t – T – b – B – B – T – T (vần)
Ghi chú: chữ t-b nhỏ không nhất thiết phải giữ đúng luật bằng trắc, nhưng nếu tiếng đáng trắc mà làm ra bằng thì được, trái lại tiếng đáng bằng mà làm ra trắc thì không nên. Các chữ T-B lớn phải tuyệt đối giữ đúng luật.
Bài thơ thí dụ để làm mẫu minh họa: HÈ
Phượng đỏ sân trường thêm rực rỡ
Trưa Hè tiếng gió buồn than thở
Du dương khúc nhạc vọng thê lương
Réo rắc cung đàn nghe nức nở
Trước ngõ cành lan trắng nụ đơm
Bên tường khóm cúc vàng hoa trổ
Mây bay lảng đảng tận phương nao
Bãi biển rì rào con sóng vỗ
(Hoàng Thứ Lang )
Tìm kiếm với từ khoá:
Share
Hoa Mùa Hạ, Mymk
2 thành viên đã gởi lời cảm ơn Nminhngoc1012 về bài viết trên:
10.11.2016, 09:49
Nminhngoc1012
V.I.P
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36
Tuổi: 35
Bài viết: 35935
Được thanks: 6059 lần
Điểm:
9.62
02.05.2014, 01:3635359356059 lần
11
Re: Sổ tay học làm Thơ – Điểm:
THƠ 4 CHỮ
1. THƠ 4 CHỮ (vần tiếp)
* Bảng Luật :
x t x B
x b x T (vần với câu dưới)
x b x T (vần với câu trên)
x t x B (vần với câu dưới)
x t x B (vần với câu trên)
x b x T (vần với câu dưới)
x b x T (vần với câu trên)
x t x B
Nếu chữ cuối của câu đầu tiên là trắc thì chữ cuối của câu thứ 2 là bằng (trong bảng luật sẽ đảo vị trí B-T với nhau), các cặp vần bằng trắc cứ xen kẽ nối tiếp như vậy cho đến khi kết thúc bài thơ.
* Ghi chú :
– B : phải là bằng
– T : phải là trắc
– b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
– t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
– x : bằng hoặc trắc đều được
Thông thường trong một câu nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ 4 là trắc, và ngược lại. Nhưng cũng có thể không cần phải đúng như vậy, miễn sao khi đọc được trôi chảy.
2. THƠ 4 CHỮ (vần ôm)
* Bảng Luật 1 :
x t x B (vần với câu 4)
x b x T (vần với câu 3)
x b x T (vần với câu 2)
x t x B (vần với câu 1)
* Bảng Luật 2 :
x b x T (vần với câu 4)
x t x B (vần với câu 3)
x t x B (vần với câu 2)
x b x T (vần với câu 1)
* Ghi chú :
– B : phải là bằng
– T : phải là trắc
– b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
– t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
– x : bằng hoặc trắc đều được
Tương tự như ở lớp 1, thông thường trong một câu nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ 4 là trắc, và ngược lại.
3. THƠ 4 CHỮ (vần 3 tiếng)
* Bảng Luật Vần Bằng :
x t x B (vần)
x t x B (vần)
x b x T
x t x B (vần)
* Ghi chú :
– B : phải là bằng
– T : phải là trắc
– b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
– t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
– x : bằng hoặc trắc đều được
Chữ cuối của các câu 1, 2 và 4 vần với nhau.
Nếu gieo vần trắc thì trong bảng luật lẽ đảo vị trí B-T cho nhau. Tuy nhiên, hiếm khi có người dùng vần trắc vì đọc nghe hơi ngang, nên ở đây chúng ta không bàn đến.
Cũng tương tự như ở 2 lớp trên, thông thường trong một câu nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ 4 là trắc, và ngược lại.
4. THƠ 4 CHỮ (vần chéo)
Gieo vần chéo có 2 loại : tạm gọi là “một vần chéo” và “hai vần chéo”.
* Bảng Luật 1 : Một vần chéo
x b x T
x t x B (vần với câu 4)
x b x T
x t x B (vần với câu 2)
Hoặc :
x t x B
x b x T (vần với câu 4)
x t x B
x b x T (vần với câu 2)
* Bảng Luật 2 : Hai vần chéo
x b x T (vần với câu 3)
x t x B (vần với câu 4)
x b x T (vần với câu 1)
x t x B (vần với câu 2)
Hoặc :
x t x B (vần với câu 3)
x b x T (vần với câu 4)
x t x B (vần với câu 1)
x b x T (vần với câu 2)
* Ghi chú :
– B : phải là bằng
– T : phải là trắc
– b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
– t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
– x : bằng hoặc trắc đều được
Cũng tương tự như ở các lớp trên, thông thường trong một câu nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ 4 là trắc, và ngược lại.
Tìm kiếm với từ khoá:
Share
Hoa Mùa Hạ, Mymk
2 thành viên đã gởi lời cảm ơn Nminhngoc1012 về bài viết trên:
23.11.2016, 12:08
Nminhngoc1012
V.I.P
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36
Tuổi: 35
Bài viết: 35935
Được thanks: 6059 lần
Điểm:
9.62
02.05.2014, 01:3635359356059 lần
11
Re: Sổ tay học làm Thơ – Điểm:
THƠ 5 CHỮ
THƠ 5 CHỮ (vần tiếp)
* Bảng Luật :
– Nếu bắt đầu là vần bằng :
x x t x B
x x b x T (vần với câu dưới)
x x b x T (vần với câu trên)
x x t x B (vần với câu dưới)
x x t x B (vần với câu trên)
x x b x T (vần với câu dưới)
x x b x T (vần với câu trên)
x x t x B
– Nếu bắt đầu là vần trắc :
x x b x T
x x t x B (vần với câu dưới)
x x t x B (vần với câu trên)
x x b x T (vần với câu dưới)
x x b x T (vần với câu trên)
x x t x B (vần với câu dưới)
x x t x B (vần với câu trên)
x x b x T
* Ghi chú :
– B : phải là bằng
– T : phải là trắc
– b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
– t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
– x : bằng hoặc trắc đều được
Chữ cuối của câu 1 là bằng thì chữ cuối của câu 2 là trắc và ngược lại. Chữ cuối của câu 3 vần với chữ cuối của câu 2, các cặp bằng trắc cứ xen kẽ nối tiếp như vậy cho đến khi kết thúc bài thơ.
Thông thường trong một câu thì chữ thứ 3 và chữ thứ 5 khác nhau về bằng trắc.
THƠ 5 CHỮ (vần ôm)
* Bảng Luật 1:
x x t x B (vần với câu 4)
x x b x T (vần với câu 3)
x x b x T (vần với câu 2)
x x t x B (vần với câu 1)
* Bảng Luật 2:
x x b x T (vần với câu 4)
x x t x B (vần với câu 3)
x x t x B (vần với câu 2)
x x b x T (vần với câu 1)
* Ghi chú :
– B : phải là bằng
– T : phải là trắc
– b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
– t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
– x : bằng hoặc trắc đều được
Một khổ thơ gồm 4 câu, chữ cuối của câu 1 và chữ cuối của câu 4 vần với nhau, chữ cuối của câu 2 và chữ cuối của câu 3 vần với nhau.
Tương tự như trên, thông thường trong một câu thì chữ thứ 3 và chữ thứ 5 khác nhau về bằng trắc.
THƠ 5 CHỮ (vần 3 tiếng)
* Bảng Luật Vần Bằng :
x x t x B (vần)
x x t x B (vần)
x x b x T
x x t x B (vần)
* Ghi chú :
– B : phải là bằng
– T : phải là trắc
– b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
– t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
– x : bằng hoặc trắc đều được
– Chữ cuối của các câu 1, 2 & 4 vần với nhau.
Nếu gieo vần trắc thì trong bảng luật chỉ cần đảo các vị trí B-T cho nhau. Tuy nhiên, ở đây chúng ta sẽ không đề cập tới.
Ngoài chữ thứ 3 và chữ thứ 5 khác nhau về bằng trắc, thông thường trong một câu nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ 4 là trắc, và ngược lại.
Tìm kiếm với từ khoá:
Share
Mymk
1 thành viên đã gởi lời cảm ơn Nminhngoc1012 về bài viết trên:
07.02.2017, 16:46
Nminhngoc1012
V.I.P
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36
Tuổi: 35
Bài viết: 35935
Được thanks: 6059 lần
Điểm:
9.62
02.05.2014, 01:3635359356059 lần
11
Re: Sổ tay học làm Thơ – Điểm:
THƠ 6 CHỮ
Thơ lục ngôn là thơ sáu chữ. Quy luật thơ không khó lắm, nhưng làm theo thể loại này, thơ khó hay, trừ khi nhà thơ phải thật tài năng.
Luật thơ : Chữ cuối các câu 1 và các câu chẵn 2, 4, 6, 8…thuộc âm Bằng. câu lẻ 3, 5, 7,…thuộc âm Trắc. Chữ thứ tư của câu dưới thường vần với chữ thứ 6 của câu trên.
1 2 3 4 5
6
1 2 3 4 5
6
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5
6
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5
6
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5
6
Ví dụ minh hoạ :
Tôi yêu, tôi yêu rất
nhiều
Tôi yêu, yêu biết bao
nhiêu
Tôi yêu tuổi thơ trong trắng
Tôi yêu ánh nắng mùa
xuân
Tôi yêu chùm hoa hoang dã
Tôi yêu câu nói …ngại
ngần
Tôi yêu trời xanh màu áo
Tôi yêu tiếng sáo hư không
Tôi yêu giòng sông mây trắng
Tôi yêu một cánh diều
say
Tôi yêu bàn tay thân ái
Tôi yêu một chiều mưa
bay
…
THƠ 6 CHỮ (vần chéo)
1 vần chéo:
x x x B x T
x x x T x B (vần)
x x x B x T
x x x T x B (vần)
VD: Kêu nhỏ chút đi ve hỡi
Ngoài kia nắng bỏng trưa hè
Chữ nghĩa cho mùa thi tới
Gọi hoài mà nó chẳng nghe
x x x T x B
x x x B x T (vần)
x x x T x B
x x x B x T (vần)
VD: Mùa thi đã ghé thật gần
Tiếng ve gọi đàn inh ỏi
Hình như cánh phượng bâng khuâng
Có một điều chi ngại nói
2 vần chéo:
x x x B x T (vần câu 3)
x x x T x B (vần câu 4)
x x x B x T (vần cầu 1)
x x x T x B (vần câu 2)
VD: Đã bao lần rồi nắng hỏi
Xa mây từ độ thu nào
Ngập ngừng gió buồn chẳng nói
Bờ tre hiểu ý lao xao
x x x T x B (vần câu 3)
x x x B x T (vần câu 4)
x x x T x B (vần câu 1)
x x x B x T (vần câu 2)
VD: Ai đem nắng trải trên đồng
Cho lúa ươm vàng trĩu hạt
Ầu ơ câu hát mênh mông
Từ lũy tre làng tỏa ngát
Ghi chú: – Gieo vần chính vận
THƠ 6 CHỮ (vần ôm)
* Bảng luật
x t x B x T
x b x T x B (vần)
x b x T x B (vần)
x t x B x T
VD: Mới thấy mùa xuân chớm ngõ
Sao giờ nắng hạ đã sang
Chiều thu ai nhặt lá vàng
Xin hãy về cùng ngọn gió (TK)
Hoặc:
x b x T x B
x t x B x T (vần)
x t x B x T (vần)
x b x T x B
VD: Tóc ba giờ đã bạc rồi
Trán mẹ vết nhăn đã rõ
Ước vọng đôi điều này nọ
Sao mà vẫn thấy xa xôi (TK)
* Lưu ý:
– t: có thể trắc
– b: có thể bằng
– T: bắt buộc trắc
– B: Bắt buộc bằng
THƠ 6 CHỮ (vần 3 tiếng)
* Bảng luật
x x x T x B
x x x T x B
x x x B x T
x x x T x B
VD: Thế là em đã xa tôi
Mà sao lòng cứ bồi hồi
Nhìn con đường xưa lá đổ
Nghe mằn mặn rớt trên môi (TK)
* Lưu ý:
– T: phải là trắc
– B: phải là bằng
– x: bằng hay trắc đều được
Tìm kiếm với từ khoá:
Share
Hoa Mùa Hạ, Mymk, Tĩnh Tâm
3 thành viên đã gởi lời cảm ơn Nminhngoc1012 về bài viết trên:
07.09.2018, 18:46
Lãng Nhược Y
Ban quản lý
Ngày tham gia: 22.04.2017, 16:02
Tuổi: 4
Bài viết: 2685
Được thanks: 708 lần
Điểm:
8.54
22.04.2017, 16:022685708 lần
11
Re: Sổ tay học làm Thơ – Điểm:
CÂU ĐỐI TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Câu đối là gì ?
Định nghĩa:
Câu đối là những câu văn đi sóng đôi với nhau từng cặp.
Những câu đối ngắn từ 3 đến 4 chữ gọi là tiểu đối, thường áp dụng trong thơ Lục Bát và thơ Song Thất Lục Bát.
Từ 5 đến 7 chữ gọi là đối thơ, thường áp dụng trong thơ Ngũ Ngôn Bát Cú và thơ Thất Ngôn Bát Cú Ðường Luật.
Từ 9 chữ trở lên gọi là đối phú, thường áp dụng trong các bài phú, các bài văn tế, thí dụ như bài Chiến Tụng Tây Hồ Phú hoặc bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc.
Trong bài nầy chúng ta chỉ cùng bàn về câu đối 7 chữ mà thôi. Vì câu đối 7 chữ được ứng dụng trong bài thơ thất ngôn bát cú Đường Luật mà chúng ta sẽ cùng nghiên cứu phân tích sau nầy.
Về luật bằng trắc thì mỗi chữ tương ứng vị trí của câu trước và câu sau, nếu chữ của câu trên bằng thì chữ của câu dưới phải trắc và ngược lại. Thí dụ:
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh
Ngoài luật Bằng Trắc ra, một câu đối còn phải Chỉnh và Cân nữa.
Chỉnh và Cân là phải tương xứng với nhau. Danh từ phải đối với danh từ, động từ phải đối với động từ, tính từ phải đối với tính từ. Riêng tính từ cũng có nhiều loại, chữ gợi hình phải đối với chữ gợi hình, màu sắc đối với màu sắc thí dụ “vàng” phải đối với “trắng”, “ớt đỏ” phải đối với “cà xanh” … chữ tượng thanh phải đối với chữ tượng thanh, thí dụ “mưa rơi tí tách” phải đối với “gió thổi rì rào” … Trạng từ như “băn khoăn” phải đối với trạng từ “thổn thức” … Chữ nặng phải đối nặng, chữ nhẹ phải đối nhẹ cho cân xứng. Mùi vị đối với mùi vị. Số lượng đối với số lượng. Mùa tiết đối với mùa tiết, phương hướng đối với phương hướng, thành ngữ đối với thành ngữ, chuyên ngữ đối với chuyên ngữ …
Đừng quên vừa đối từ loại vừa đối bằng trắc.
Và nhất là 2 câu phải đối ý nghĩa với nhau. Ðối ý có nghĩa là chọi nhau, là cân (xứng) nhau.
Thí dụ uống đối với ăn, mướp đối với bầu, giết đối với tha, Hạ đối với Thu, thấp đối với cao, ngắn đối với dài, biển đối với trời, núi đối với sông, cố quận đối với tha hương, đất lạ đối với trời xa, biển rộng đối với sông dài, xóm cũ đối làng xưa, uất hận đối với đau thương, má phấn đối với môi hồng , thiếu nữ đối với thanh niên, liệt nữ đối với anh hùng, phú đối với thơ, tiếng đối với lời, chữ đối với câu, nhạc đối với thơ v.v…
Ngày xưa người ta cưới vợ gã chồng lựa nơi môn đăng hộ đối tức là hai bên gia thế phải tương xứng với nhau. Chúng ta có thể hiểu “đối” theo khái niệm này.
PHÉP ÐỐI:
Gồm có:
– Đối luật (bằng trắc).
– Đối ý.
– Đối từ loại.
– Danh từ riêng đối với danh từ riêng, danh từ chung đối với danh từ chung.
– Tên người đối với tên người, tên nước tên địa phương đối với tên nước tên địa phương.
– Từ kép đối từ kép, từ đơn đối từ đơn.
– Hán-Việt đối Hán-Việt, Nôm đối Nôm (Nôm là tiếng thuần Việt).
– vân vân …
Thí dụ:
Quê người đón Tết không nghe pháo
Đất khách chào Xuân chẳng thấy mai
Chúng ta cùng nhau phân tích 2 câu trên:
Câu trên: <— —— —> Câu dưới:
Quê (bằng, noun) <—–> Đất (trắc, noun)
Người (bằng, noun) <—–> Khách (trắc, noun)
Đón (trắc, verb) <—–> Chào (bằng, verb)
Tết (trắc, noun) <—–> Xuân (bằng, noun)
Không (bằng, adv) <—–> Chẳng (trắc, adv)
Nghe (bằng, verb) <—–> Thấy (trắc, verb)
Pháo (trắc, noun) <—–> Mai (bằng, noun)
Câu đối 7 chữ thì vế trên chữ thứ 7 (chữ cuối) luôn luôn là thanh TRẮC, vế dưới chữ thứ 7 luôn luôn là thanh BẰNG.
Câu đối 7 chữ cũng có 2 bảng luật: luật trắc và luật bằng, như sau:
1. BẢNG LUẬT TRẮC:
T – T – B – B – B – T- T
B – B – T – T – T – B – B
Thí dụ:
1.
Phượng vĩ tươi hồng khi nắng Hạ
Ngô đồng héo úa lúc mưa Thu
2.
Bán dạ kê thanh sầu bất giải
Bình minh điểu ngữ lệ nan càn
(半 夜 鷄 聲 愁 不 解
平 明 鳥 語 淚 難 乾)
2. BẢNG LUẬT BẰNG:
B – B – T – T – B – B – T
T – T – B – B – T – T – B
Thí dụ:
1.
Sau nhà chậu cúc vừa đơm nụ
Trước ngõ cành mai mới trổ hoa
2.
Bần cư náo thị vô nhân vấn
Phú tại thâm sơn hữu khách tầm
(貧 居 閙 市 無 人 問
富 在 深 山 有 客 尋)
Chú ý: Phần câu đối nầy để ứng dụng cho Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật cho nên chữ cuối cùng của vế trên phải luôn luôn là thanh trắc.
Tìm kiếm với từ khoá:
Share
Nminhngoc1012
1 thành viên đã gởi lời cảm ơn Lãng Nhược Y về bài viết trên:
Hiển thị bài viết từ:
Sắp xếp theo
Trang 1/1
[ 10 bài ]
Chuyển đến:
Đang truy cập
Không có thành viên nào đang truy cập
Điều hành
Lãng Nhược Y, Thử việc CLB Văn học
Bạn không thể tạo đề tài mới
Bạn không thể viết bài trả lời
Bạn không thể sửa bài của mình
Bạn không thể xoá bài của mình
Bạn không thể gởi tập tin kèm