Sơ đồ tư duy Bài ca Côn Sơn dễ nhớ, hay nhất – PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HUYỆN TRẠM TẤU
Nhằm giúp các em học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức và nội dung các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 7, chúng tôi biên soạn bài Sơ đồ tư duy Bài ca Côn Sơn hay và dễ nhớ nhất với đầy đủ thông tin hữu ích. Các nội dung như tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, bố cục, lập dàn ý phân tích, bài văn mẫu phân tích,…. Hi vọng thông qua Sơ đồ tư duy Bài ca Côn Sơn sẽ giúp các em nắm được nội dung. cơ sở của Bài ca Côn Sơn.
A. Bản đồ tư duy Bài ca Côn Sơn
B. Tìm hiểu Bài ca Côn Sơn
I. Tác giả
– Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu Ức Trai, con Nguyễn Phi Khanh.
– Quê quán: quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; rồi đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
– Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò to lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử kiệt xuất, tài hoa hiếm có. Nhưng cuối cùng ông bị giết oan uổng và bi thảm vào năm 1442 và mãi đến năm 1464 mới được vua Lê Thánh Tông rửa oan.
– Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có “Bình Ngô Đại Cáo”, “Ức Trai Thi Tập”, “Quốc Âm Thi Tập”, “Quân Trung Từ Mạnh Tập”.
– Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO công nhận là Danh nhân Văn hóa Thế giới (1980).
II. Nghiên cứu chung về tác phẩm
1. Thể loại: Thơ lục bát (bản dịch)
2. Hoàn cảnh sáng tác
Bài ca Côn Sơn rất có thể được sáng tác trong thời gian Người bị áp bức và phải chịu án đày ra Côn Sơn.
3. Giá trị nội dung
Với hình tượng nhân vật “ta” giữa khung cảnh Côn Sơn thơ mộng, hấp dẫn, bài thơ cho thấy sự hòa hợp trọn vẹn giữa con người và thiên nhiên, bắt nguồn từ nhân cách và hồn thơ cao cả của Nguyễn Trãi. .
4. Giá trị nghệ thuật
Sử dụng đại từ nhân xưng “tôi”.
– Đan xen những chi tiết, câu thơ tả cảnh, tả người.
– Sử dụng các biện pháp tu từ: so sánh, điệp ngữ.
– Giọng nhẹ nhàng, êm ái.
– Bản dịch theo thể thơ lục bát, ngôn ngữ trong sáng, sinh động, hấp dẫn.
III. Lập dàn ý để phân tích tác phẩm
1. Thắng cảnh Côn Sơn
– Tranh ảnh miêu tả thiên nhiên Côn Sơn:
+ Tiếng suối: Tiếng suối trong như tiếng đàn cầm.
+ Rêu khô.
+ Thông mọc như nêm: thông mọc dày đặc.
+ Cây trúc bóng mát: Cây tre rậm rạp, bóng mát, dày tạo bóng mát khi trời nắng.
+ Nghệ thuật: so sánh, sử dụng từ ghép, tính từ, động từ.
→ Khung cảnh thiên nhiên Côn Sơn trong lành, hoang sơ, yên tĩnh, khoáng đạt, thơ mộng mà gần gũi.
– Tác giả là người yêu, hiểu và trân trọng những giá trị của thiên nhiên.
2. Con người giữa thiên nhiên Côn Sơn
– Sử dụng cách nói ám chỉ, đại từ nhân xưng “ta” để nhấn mạnh sự có mặt của “ta” trong toàn bộ cảnh đẹp Côn Sơn.
– Sử dụng nhiều động từ: tôi nghe, tôi ngồi, tôi nằm, tôi ngâm…
→ Làm nổi bật sự hiện diện của con người trước thiên nhiên khoáng đạt, rộng mở, gợi tư thế ung dung, tự tại của con người trước thiên nhiên.
→ Tâm hồn nhà thơ thanh cao, trong sáng, yêu thiên nhiên và hòa nhập với thiên nhiên.
IV. Phân tích
Từ xưa đến nay, đề tài thiên nhiên trong thơ cổ thường rất phong phú. Các nhà thơ Việt Nam thời trung đại đã viết nhiều bài thơ hay về cảnh đẹp quê hương, trong đó có Nguyễn Trãi, một nhà thơ tài hoa, cũng là một anh hùng kiệt xuất của dân tộc ta, người đã sáng tác “Bài ca Côn Sơn” trong những ngày ông về ở ẩn tại quê nhà . Đoạn thơ vừa miêu tả cảnh thiên nhiên yên tĩnh, trong lành vừa bộc lộ những cảm xúc đẹp đẽ của nhà thơ khi ngắm nhìn núi rừng quê hương.
Bài thơ nguyên tác bằng chữ Hán nhưng đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt với thể thơ lục bát du dương, uyển chuyển. Bản dịch được đánh giá là tốt, thể hiện trọn vẹn cảm xúc của bản gốc. Mở đầu bức tranh Côn Sơn là tiếng đàn êm dịu:
Suối Côn Sơn róc rách
Tôi nghe nó như tiếng vĩ cầm bên tai
Nhà thơ cảm nhận thiên nhiên trước hết bằng thị giác và từ đó đối tượng trữ tình là cảnh vật Côn Sơn hiện ra thật thanh tao, tĩnh lặng. Âm thanh của dòng suối tự nhiên được so sánh với âm thanh của đàn hạc bên tai. Tiếng đàn thường thể hiện cảm xúc, tâm trạng của người nghệ sĩ. Còn tiếng suối kia, phải chăng là âm thanh của núi rừng làm lắng dịu tâm can với thi nhân? Miêu tả tiếng suối cùng với tiếng đàn là một cách miêu tả rất độc đáo, ta có cảm giác như nhân vật trữ tình đang say sưa thưởng thức âm thanh ấy như thưởng thức nghệ thuật đỉnh cao của mẹ thiên nhiên. Sau này, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng đã từng miêu tả tiếng suối trong như tiếng hát xa, cũng so sánh âm thanh của thiên nhiên với âm thanh du dương do con người tạo ra. Hai nhà thơ ở hai thời đại khác nhau gặp nhau ở tình yêu thiên nhiên tha thiết nhưng tiếng suối cầm của Nguyễn Trãi đẹp cổ điển còn tiếng suối hát Hồ Chí Minh đẹp hiện đại. , trẻ trung lung linh…
Vậy đấy, nhà thơ miêu tả tiếng suối để miêu tả không gian tĩnh lặng, đây là nghệ thuật động và tả tĩnh. Và ở giữa không gian đó là hình ảnh:
Côn Sơn có rêu đá
Tôi ngồi trên tảng đá như một tấm thảm mềm
Nhà thơ miêu tả đá mới độc đáo như thế nào: Cảm nhận đá qua màu rêu phong đã trải mưa nắng bao tháng ngày. Hình ảnh này khiến người đọc có cảm giác rằng đá Côn Sơn đã ngưng hoạt động từ lâu. Có lẽ nó mang theo chiều dài của năm tháng và bề dày của những trang lịch sử, là hình ảnh của một thiên nhiên nguyên sơ xưa cũ mà nhà thơ yêu mến, gắn bó. Vì thế, Nguyễn Trãi “ngồi trên đá mà êm như ngồi”. Lại là nghệ thuật so sánh vô cùng đặc sắc, mang thiên nhiên đến rất gần. Côn Sơn như một ngôi nhà lớn, nhưng tấm thảm rêu phong ấy đã trở thành chiếc chiếu êm ái cho con người, giúp nhân vật trữ tình có thể ngồi nghỉ ngơi, viết nên những vần thơ đẹp mượt mà như cảnh Côn Sơn.
Côn Sơn còn có rừng thông xanh tươi bốn mùa, cho thi nhân thưởng lãm:
Trong rừng thông mọc như nêm
Tìm một nơi có bóng râm nơi chúng ta có thể nằm xuống.
Người xưa rất thích thông, bởi nó là loài cây không sợ sương giá, cứ xanh tốt, thẳng tắp dù gió lộng. Hình ảnh rừng thông làm nên khung cảnh Côn Sơn hùng vĩ, với sự so sánh giản dị thông mọc như nêm. Rừng thông ấy không bao giờ gục ngã trong bão tố, đây là vẻ đẹp của sức sống, của niềm tin. Ẩn ý của nhà thơ phải chăng là như vậy? Sau đó, người ta xuất hiện dưới bóng mát của rừng thông, như một hành động thể hiện sự thoải mái và thân quen, chúng tôi nằm xuống. Rừng và nhà thơ hòa trong mối quan hệ mật thiết, bóng thông mát rượi che giấc ngủ say của nhà thơ buổi trưa. Người đọc như cảm nhận được một tâm hồn dạt dào cảm hứng yêu thiên nhiên quê hương của Nguyễn Trãi. Cuối cùng là vẻ đẹp của rừng trúc:
Trong rừng có bóng tre,
Màu xanh thơ thẩn ngâm thơ.
Một màu xanh khác, màu xanh của tre đã góp phần tạo nên một màu xanh trong khung cảnh Côn Sơn, một màu xanh dịu mát là bóng mát của những đôi chân nghỉ ngơi, thong dong ngân nga. Cây trúc còn tượng trưng cho sức sống trường tồn, mạnh mẽ của núi rừng Côn Sơn.
Lối hành văn của Nguyễn Trãi thật tài tình: hình ảnh thơ đẹp, liên tưởng thú vị độc đáo, hình ảnh thiên nhiên giữa thiên nhiên và con người chan hòa… Từ đó thấy được sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên, nhân cách cao thượng, ung dung của nhà thơ tỏa sáng trên từng câu chữ . “Bài ca Côn Sơn” không chỉ là một bức tranh đẹp mà nó còn là một bài ca về tình yêu thiên nhiên, niềm hạnh phúc khi được ngắm nhìn vẻ đẹp thiên nhiên quê hương của nhà thơ.
V. Vài nhận xét về tác phẩm
Đầu tiên.
Côn Sơn Ca – Bản hòa ca giữa trí tuệ và từ bi
… Khúc Côn Sơn mở ra một không gian xanh, trong và mát. Núi non hùng vĩ nhưng không huyền bí, xa vắng. Thiên nhiên mang vẻ đẹp hoang sơ, nguyên sơ mà ấm áp, thân thiện. Người ta đến đó không phải để nghe và nhìn bằng tai mắt thường mà bằng một cái tâm đã lọc sạch bụi bẩn và rộng mở. Nhờ sự trống rỗng và cởi mở của nó, nó đã nhận được toàn bộ “chân” của tạo hóa. Thiên nhiên là một thế giới riêng có linh hồn. Đem tâm mình hòa hợp với vạn vật, Nguyễn Trãi đã vận dụng nguyên lý “vạn vật là một” của triết học phương Đông để tận hưởng niềm vui tìm tòi, khám phá. Côn Sơn thực sự trở thành ngôi nhà thân quen khi nhà thơ nghe được tiếng suối, tiếng đá, tiếng thông, tiếng tre, có thể cùng trò chuyện, đồng cảm, có thể ví von như tiếng đàn, như chiếc chiếu êm ái. làm dù che nắng để nằm nghỉ, màn xanh để ngồi ngâm mình trong vịnh. Thiên nhiên luôn hào phóng dành những hương vị, âm thanh, cảm xúc giản dị mà kỳ diệu cho những ai biết mở các giác quan của tâm hồn trước nó. Khi con người mở cánh cửa tâm hồn, thiên nhiên cũng mở cánh cửa kho tàng vô tận. Giọng thơ thật hào hứng khi nói “Côn Sơn có suối”, “Côn Sơn có đá”, “trong núi có thông”, “trong rừng có trúc”…. Giàu mức nào! Tôi là một phần của tất cả và tất cả là tôi! Nhận thức được sự tích hợp lớn lao này, con người đã mang linh hồn của vũ trụ, sự phong phú và vĩnh cửu của vũ trụ. Qua đó giải thoát khỏi mọi thứ ngục tù của quy ước, giáo điều, thành kiến trong cách nhìn, lẽ thường để dùng đôi mắt trẻ thơ nhìn nhận cảnh vật và tái hiện nó trong một thế giới thơ ca trong trẻo mà quyến rũ lạ thường….
(Theo Đoàn Thị Thu Vân, Côn Sơn Ca – Khúc giao hòa giữa trí tuệ và nhân ái, Tạp chí Văn học, số 10, 2000)
Xem thêm sơ đồ tư duy các bài văn, bài văn lớp 7 hay, chi tiết:
Các bài giải bài tập lớp 7 sách mới có:
Giải bài tập lớp 7 theo sách mới môn học
Bạn thấy bài viết Sơ đồ tư duy Bài ca Côn Sơn dễ nhớ, hay nhất có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Sơ đồ tư duy Bài ca Côn Sơn dễ nhớ, hay nhất bên dưới để pgddttramtau.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: pgddttramtau.edu.vn của PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HUYỆN TRẠM TẤU
Nhớ để nguồn bài viết này: Sơ đồ tư duy Bài ca Côn Sơn dễ nhớ, hay nhất của website pgddttramtau.edu.vn
Chuyên mục: Văn học