Siêu Hình Học
Trích dịch từ ấn bản Anh ngữ cuốn Metafisica xuất bản năm 1982 của triết gia Công Giáo Tomás Alvira Domínguez (1951). Bản dịch Tiếng Anh do cha Luis Supan người Philippines thực hiện. Trong quá trình dịch có đối chiếu với bản gốc Tiếng Tây Ban Nha và đưa ra một số sự minh định cá nhân về các thuật ngữ Hán Việt. Người dịch: Tân tòng Augustinô.
Nội Dung Chính
Lời tựa
Trong hai thập kỷ trở lại đây, phần lớn các tác phẩm triết học được xuất bản đều là những chuyên khảo và tiểu luận mà chúng ta có thể mô tả đúng nhất là những ấn phẩm thuộc thể loại lịch sử và phân loại. Đi kèm với hiện tượng này là sự suy giảm hoàn toàn việc xuất bản và sử dụng các tác phẩm triết học có phạm vi rộng hơn, chẳng hạn như các sách giáo khoa. Điều này có thể là do những thay đổi trong thị hiếu của độc giả đương đại—giờ đây, họ dường như không còn hứng thú với cách tiếp cận có tính hệ thống quá mức và học thức uyên bác cao siêu nơi nhiều sách giáo khoa triết học.
Mặt khác, một xu hướng ngày càng tăng của việc chuyên môn hóa, cũng như việc cố gắng đạt tới một hiểu biết sâu sắc mang tính lịch sử và thuần lý về các vấn đề triết học đã chuyển hướng sự chú ý của chúng ta ra khỏi một nhiệm vụ tối cần thiết, đó là cung cấp cho những người muốn đi sâu vào ngành triết những tri thức cơ bản có thể làm nền tảng cho sự hấp thu có hiệu quả một danh mục rộng lớn các nghiên cứu chuyên môn.
Cuốn sách này có ý nghĩa như một sách giáo khoa về triết học cơ bản, tức là siêu hình học—khoa học về hữu thể, như những gì mà nó luôn luôn được hiểu từ thời Parmenides, Plato, Aristotle và Thánh Tô-ma cho đến ngày nay. Trong thời đại của chúng ta, siêu hình học trở nên đặc biệt thích hợp, khi triết học bắt đầu mở ra một lần nữa cho sự siêu vượt của hữu thể sau nhiều thế kỷ bị giam cầm bởi chủ nghĩa chủ quan. Các nghiên cứu đương đại của hiện tượng học, chủ nghĩa hiện sinh và triết học phân tích lại bắt đầu đặt ra một lần nữa những câu hỏi liên quan đến hữu thể.
Mục tiêu của chúng tôi là trình bày cho người đọc các nguyên lý siêu hình theo một cách thức rõ ràng và có trật tự. Từ đó, người đọc sẽ có khả năng giải quyết các vấn đề triết học cấp bách khác nhau mà con người trong thời đại của chúng ta đang phải đối mặt.
T. ALVIRA
L. CLAVELL
T. MELENDO
Về một số từ Hán Việt được sử dụng trong Siêu hình học
thể [體] – Từ này có rất nhiều nghĩa khác nhau tùy theo văn cảnh, trong các thuật ngữ Siêu hình học mà người Việt sử dụng, nó thường có ý nghĩa là cái, dạng, tính chất, hay vai trò mà từ đứng trước nó diễn đạt.
being – hữu thể [有體] – hữu [有] là có, trái với vô [không]. Vậy, hữu thể là cái có.
act – hiện thể [現體] – hiện [現] là hiện tại, bây giờ, ngay lúc này đây. Vậy, hiện thể là cái đang diễn ra, đang xảy ra trong hiện tại.
potentiality – tiềm thể [潛體] – tiềm [潛] là giấu kín, ngầm, ẩn. Vậy, tiềm thể là cái vẫn còn ẩn tàng, chưa thể hiện, chưa tỏ lộ.
potency – tiềm năng [潛能] – năng [能] là khả năng, năng lực, sức.
substance – bản thể [本體] – bản [本] là gốc, cội.
accident – tùy thể [隨體] – tùy [隨] là theo sau, thuận theo. Vậy, tùy thể là cái đóng vai trò phụ, là cái theo sau, tùy theo cái khác.
matter – chất thể [質體] – chất [質] chỉ thể chất, cái gốc của sự vật; hoặc vật chất [物質] – chỉ chung những thứ có hình thể, chiếm chỗ trong không gian và sờ chạm được.
form – mô thức [模式] – mô [模] là khuôn mẫu; thức [式] là dáng, kiểu, quy cách. Vậy, mô thức là dáng, kiểu có vai trò làm khuôn mẫu chung cho một số sự vật.
a priori – tiên thiên [先天] – Tiên [先] là trước; thiên [天] ở đây nói về cái bởi tự nhiên, giống như trong từ thiên nhiên [天然]. Vậy, tiên thiên là cái gì đó trước—theo tự nhiên.
a posteriori – hậu thiên [后天] – Hậu [后] là sau. Vậy, hậu thiên là cái gì đó sau—theo tự nhiên.
a priori – tiên nghiệm [先驗] – Tiên [先] là trước; nghiệm [驗] là chứng nghiệm, kiểm nghiệm. Kinh [經] là trải qua. Vậy, tiên nghiệm là trước kinh nghiệm, hay không đòi hỏi kinh nghiệm.
a posteriori – hậu nghiệm [后驗] – Hậu [后] là sau. Vậy, hậu thiên là sau kinh nghiệm, hay đòi hỏi phải qua kinh nghiệm.
transcendent – siêu nghiệm [超驗] – siêu [超] là vượt qua, vượt quá, vượt mức (tương tự chữ việt [越]). Vậy, siêu nghiệm là cái vượt quá kinh nghiệm.
…
CHƯƠNG I. BẢN TÍNH CỦA SIÊU HÌNH HỌC
Vũ trụ luôn thôi thúc con người tự hỏi về nguồn gốc của nó. Và con người đã làm việc không ngừng để tìm kiếm một lời giải thích cho vũ trụ—một lời giải thích có thể được coi là tối thượng và phổ quát hay bao trùm tất cả. Trong nỗ lực này, nhiều trường phái tư tưởng khác nhau đã nảy sinh trong suốt dòng lịch sử, trong đó, mỗi trường phái lại đưa ra một lời giải thích của riêng mình. Một số xác định rằng cơ sở tận căn [hay triệt để] nhất của thực tại là một yếu tố cá biệt nằm trong nó, chẳng hạn như vật chất, tinh thần, tư tưởng, hay chuyển động; điều này ngụ ý rằng mọi sự vật trong vũ trụ đều chỉ là một nhánh hay một thứ gì đó phát sinh từ yếu tố này. Trong khi đó, một số khác lại chủ trương sự hiện hữu của một Nguyên Lý siêu vượt tạo nên vũ trụ nhưng nằm bên ngoài nó. Và trong khi một số nhà tư tưởng đề xuất sự hiện hữu của một căn nguyên duy nhất của vũ trụ, thì những người khác lại cho rằng nó được tạo ra từ hai hoặc nhiều nguồn hơn.
Những vấn đề này không hoàn toàn thuần lý; trái lại, chúng tạo ra một ảnh hưởng sâu sắc đến hiện sinh con người. Rõ ràng, có một sự khác biệt giữa việc một người tin rằng mọi sự—kể cả chính anh ta—đều bắt nguồn từ chất thể trơ lì và sẽ trở về với nó, hoặc tin rằng mình được tạo ra bởi Chúa, Đấng đã đưa anh ta vào hiện hữu từ hư vô. Việc coi con người như những hữu thể nằm dưới sự chi phối của các sự kiện ngẫu nhiên của số mệnh, hoặc là chủ nhân tuyệt đối của sự hiện hữu nơi mình, hay như những thụ tạo có khả năng tự do nhận biết và yêu mến một Thiên Chúa có ngôi vị—tất cả đó đều là những lựa chọn mang tính học thuyết sẽ vạch ra những con đường hoàn toàn khác nhau cho đời sống con người.
Ban đầu, việc nghiên cứu những vấn đề này chỉ hình thành nên một khối tri thức vô định hình được gọi là triết học, khôn ngoan, hay khoa học. Tuy nhiên, ngay sau đó, những nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của thực tại (chẳng hạn như toán học, y khoa, ngữ pháp) đã làm nảy sinh ra các ngành khoa học đặc biệt hay cá biệt, là những bộ môn trở nên phân biệt với triết học đích thực và giải quyết các vấn đề cơ bản hơn của thực tại. Tới lượt mình, khi khối tri thức triết học ngày càng phát triển, đã có sự xuất hiện của các nhánh triết học liên quan đến đối tượng nghiên cứu cụ thể, chẳng hạn như tự nhiên, con người và các vấn đề luân lý. Trong số các nhánh này, người ta khám phá ra một hạt nhân nòng cốt của tri thức triết học có ảnh hưởng đến tất cả các nhánh khác, bởi lẽ nó tìm kiếm cấu trúc tối hậu của vũ trụ, thứ tất yếu dẫn đến việc nghiên cứu về nguyên nhân đệ nhất và tận căn của nó. Khoa học này được gọi là siêu hình học.
1. KHÁI NIỆM SIÊU HÌNH HỌC
Ở thời điểm này, chúng ta có thể tạm định nghĩa siêu hình học là nghiên cứu về nguyên nhân tối hậu và những nguyên lý đệ nhất, phổ quát nhất của thực tại. Bây giờ, chúng ta sẽ thảo luận chi tiết về các thành phần của định nghĩa sơ bộ này.
a) Các nguyên nhân tối hậu được phân biệt với các nguyên nhân gần đúng vốn trực tiếp tạo ra một số hiệu quả cụ thể. Chẳng hạn, sự gia tăng áp suất khí quyển là nguyên nhân của thời tiết đẹp; tim là cơ quan đóng vai trò nguyên nhân của sự lưu thông máu. Việc nghiên cứu những nguyên nhân này liên quan đến lĩnh vực của các khoa học cá biệt. Trái lại, các nguyên nhân tối hậu (hay còn được gọi là các nguyên nhân tối thượng) mở rộng ảnh hưởng của chúng đến tất cả các tác động trong một phạm vi nhất định, giống như một nhà lãnh đạo chính trị xét trong sự điều hành quốc gia, hoặc khát khao có được hạnh phúc của một người trong mối liên hệ đến toàn bộ hoạt động nhân loại của người ấy. Siêu hình học suy xét nguyên nhân tối hậu cách tuyệt đối của vũ trụ. Nó cố gắng xác định nguyên nhân đó và nỗ lực để biết nhiều hơn về bản tính, cũng như hoạt động của nó. Vì Thiên Chúa là nguyên nhân tối hậu của vạn vật, nên hiển nhiên, Ngài chính là đề tài chủ yếu của siêu hình học.
b) Siêu hình học còn nghiên cứu những nguyên lý đệ nhất và phổ quát nhất của thực tại. Bên cạnh những nguyên nhân gây ra tác động trên hiệu quả của chúng từ bên ngoài, còn tồn tại những yếu tố nội tại nơi chính bản thân các hiệu quả đó, cấu thành nên chúng và ảnh hưởng đến cách thức chúng hiện hữu và hành động. Chúng thường được gọi là các nguyên lý; do đó, các nguyên tử là những nguyên lý nhất định của phân tử, chúng quyết định bản tính và các tính chất của phân tử; trong các hữu thể sống, các tế bào hoạt động giống như những nguyên lý của cơ thể. Nhưng siêu hình học tìm kiếm những nguyên lý đệ nhất và phổ quát nhất, có nghĩa là, những nguyên lý cấu thành nên mọi sự vật cách triệt để. Do đó, các triết gia thường có xu hướng coi một số khía cạnh cá biệt của thực tại là cơ bản nhất, và như thế, là nguồn gốc của mọi thứ khác (chẳng hạn, biến đổi hay biến hóa, lượng, bản chất, hoặc may rủi). Bất cứ khi nào có ai đó coi điều gì đó là nguyên lý nội tại đệ nhất của mọi sự vật, thì người đó đang bàn luận trong cấp độ siêu hình. Ở cấp độ này, lĩnh vực nghiên cứu của siêu hình học bao hàm mọi sự vật có thực, bởi lẽ nó tìm kiếm nguyên nhân tối hậu và các nguyên lý cơ bản của thực tại; trái lại, các khoa học cá biệt chỉ nghiên cứu một khía cạnh giới hạn của thế giới.
Chúng ta có thể đưa ra một số ví dụ về các nghiên cứu khoa học như cấu trúc nguyên tử, hệ tiêu hóa của động vật, các bệnh ở thực vật. Các khoa học này đạt được tiến bộ trong lĩnh vực riêng của chúng nhờ vào khối tri thức thường hằng mà chúng lấy làm cơ sở, khối tri thức luôn được giả định hay được coi là thứ sẵn có hiển nhiên trong mọi nghiên cứu khoa học. Chẳng hạn, các khái niệm về đời sống thực vật hay về sự sống nói chung, vật thể vật chất, lượng và những thứ tương tự. Thông thường, các nhà khoa học không tiến hành các nghiên cứu sâu hơn về những điều này, nhưng nếu họ hỏi “Sự sống là gì?”, “Lượng là gì?”, “Biết là gì, thấy là gì và cảm nhận là gì?”, thì họ đã đang đặt ra những câu hỏi triết học. Sự thực là có những câu hỏi còn triệt để hơn những câu hỏi này, tới lượt mình, chúng lại được giả thiết bởi những câu hỏi mà chúng ta vừa đề cập: “Hiện hữu nghĩa là gì?”, “Nhân quả là gì?”, “Đâu là ý nghĩa của vũ trụ?”, “Sự thật là gì?”, “Sự thiện là gì?”–tất cả những câu hỏi này, cách chặt chẽ, đều thuộc về lĩnh vực của siêu hình học.
2. SIÊU HÌNH HỌC XÉT NHƯ KHOA HỌC VỀ HỮU THỂ XÉT LÀ HỮU THỂ
Mỗi khoa học đều có đối tượng nghiên cứu của riêng nó, đó là một khía cạnh của thực tại mà khoa học ấy đề cập. Chẳng hạn: sinh học suy xét thế giới của các hữu thể sống, toán học nghiên cứu các khía cạnh về lượng của các sự vật, địa lý tự nhiên đề cập đến bề mặt trái đất. Đối tượng nghiên cứu của một khoa học cụ thể giúp định rõ đặc điểm hay định nghĩa nên khoa học đó, tạo ra tính đơn nhất nội tại cho nội dung của nó và phân biệt nó với các khoa học khác.
Có một sự phân biệt thường được thực hiện giữa đối tượng chất thể và đối tượng mô thức của một khoa học; cái trước còn được gọi là “đề tài” của một khoa học vì nó là tổng của những gì mà khoa học đó nghiên cứu, trong khi cái sau là khía cạnh của đối tượng chất thể mà khoa học đó tập trung vào. Như vậy, đối tượng chất thể của sinh học bao gồm tất cả các hữu thể sống, nhưng đối tượng mô thức của nó lại giới hạn đối tượng nghiên cứu vì khoa học này tiến hành nghiên cứu nó từ quan điểm về sự sống. Tương tự như vậy, đối tượng chất thể của y học là cơ thể người, nhưng đối tượng mô thức của nó là cơ thể người trong chừng mực nằm dưới sự chi phối của sức khỏe hay bệnh tật.
Siêu hình học nghiên cứu về hữu thể xét là hữu thể, cùng với các tính chất và nguyên nhân của nó.
Các khoa học cá biệt lấy một số khía cạnh cụ thể của thực tại làm đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, phải có một khoa học khác nghiên cứu toàn bộ thực tại bằng cách tập trung vào khía cạnh chung nhất của mọi sự vật: rằng mọi sự vật “hiện hữu”, rằng chúng là “thực”. Khía cạnh chung này được giả thiết bởi bất cứ dạng tri thức cá biệt nào khác. Do đó, khi một nhà thực vật học nghiên cứu và phân loại các loài thực vật, anh ta biết rằng “thực vật hiện hữu”, rằng chúng là “các hữu thể”; khái niệm hữu thể có trước khái niệm của bất cứ loài thực vật nào. Chúng ta hãy xem xét các thành phần của tuyên bố được đề cập ở trên:
i) Hữu thể (being): đây là thuật ngữ siêu hình tương đương với cái được gọi là “sự vật” trong ngôn ngữ thông thường. Hữu thể biểu thị cho “cái hiện hữu” (“that which is”), hoặc một cái gì đó được phú bẩm cho hành vi hiện hữu (“act of being”). Cây là một hữu thể, và chim, người, hay kim cương cũng vậy; nhưng trong khi từ “chim” biểu thị một bản tính hay một loại hiện hữu cá biệt, thì hữu thể diễn đạt sự kiện rằng chim hiện hữu. Từ “hữu thể” là hiện tại phân từ của động từ “hiện hữu” (“to be”). Cũng giống như một con người, trong chừng mực anh ta nghe, (tức là anh ta thực hiện hành vi nghe) được gọi là “người nghe”, và trong chừng mực anh ta học, được gọi là học sinh (hay người học), tương tự như vậy, trong chừng mực anh ta có hành vi hiện hữu, được gọi là “hữu thể”.*
ii) xét là hữu thể: Thánh Tô-ma, trong cuốn chú giải bộ Siêu hình học của Aristotle, đã nói rằng: “Các khoa học khác, vốn bàn đến các hữu thể cá biệt, thực sự suy xét về hữu thể (vì tất cả đối tượng nghiên cứu của các khoa học là các hữu thể); tuy nhiên, chúng không suy xét hữu thể xét là hữu thể, nhưng xét là một dạng hữu thể cá biệt nào đó, chẳng hạn như con số, đường kẻ, lửa, hoặc những thứ tương tự.”1 Do đó, có thể nói rằng đối tượng chất thể của siêu hình học là thực tại trong tính trọn vẹn của nó, vì tất cả các sự vật có thể hiện hữu, bất kể bản chất, đều là các hữu thể. Mặt khác, đối tượng mô thức của nó là “hữu thể xét là hữu thể” [“being as being”] hay “hữu thể xét là như vậy” [“being as such”]. Việc đối tượng chất thể của siêu hình học bao gồm toàn bộ thực tại không có nghĩa rằng siêu hình học là tổng cộng của các khoa học cá biệt khác nhau. Đồng thời, nó cũng không phải là sự tổng hợp của tất cả các khoa học cá biệt (như các triết gia theo chủ nghĩa thực chứng chủ trương). Siêu hình học là một khoa học phân biệt, vì nó nghiên cứu một khía cạnh cá biệt của thực tại thuộc riêng về nó và được giả thiết bởi các khoa học khác, đó là hiện hữu của các sự vật.
iii) Các tính chất và nguyên nhân của hữu thể: Để xử lý đối tượng nghiên cứu của mình, mọi khoa học đều phải nghiên cứu các đặc tính và mọi thứ tồn tại liên quan đến nó. Giống như cách mà vật lý học nghiên cứu hệ quả từ các tính chất vật lý của các vật thể, như khối lượng hay năng lượng của chúng, siêu hình học nghiên cứu tính chất của các hữu thể trong chừng mực chúng là những hữu thể. Bên cạnh đó, nó còn có nhiệm vụ khám phá các khía cạnh của hữu thể xét là hữu thể (chẳng hạn như “sự thật”), cũng như những khía cạnh không thuộc về hữu thể xét là hữu thể (chẳng hạn như “chất thể” hay bản tính hữu hình).
Hơn nữa, bất cứ ngành khoa học nào cũng nghiên cứu một loại các sự vật cụ thể và những nguyên nhân đặc thù của chúng, bởi lẽ nếu không có một sự nắm bắt tốt về các nguyên nhân, tri thức có được về đối tượng sẽ là không đầy đủ. Do đó, siêu hình học phải nghiên cứu nguyên nhân của tất cả mọi hữu thể trong chừng mực chúng là những hữu thể: đây là một trong những lĩnh vực nghiên cứu chủ yếu của siêu hình học về đối tượng đặc thù của nó. Giống như y học tìm kiếm các nguyên nhân của sức khỏe về mặt thể lý (chẳng hạn như dinh dưỡng, khí hậu, vệ sinh), siêu hình học dẫn chúng ta đến nguyên nhân của hành vi hiện hữu nơi vạn vật, đó là Thiên Chúa, dưới tư cách là Đấng Sáng Tạo.
Khi có sự tiến bộ trong hiểu biết về các vấn đề đa dạng của siêu hình học, chúng ta sẽ thấy rõ hơn rằng những đặc tính cơ bản nhất của thế giới thực phụ thuộc vào sự thật cơ bản là tất cả mọi sự vật đều hiện hữu: rằng chúng là những hữu thể. Hành vi hiện hữu là tính chất cơ bản nhất của mọi sự vật, bởi lẽ bất kể chúng có sự hoàn thiện hay đặc tính nào đi nữa, thì trước mọi thứ khác, chúng phải hiện hữu đã. Đây là điều kiện cơ bản mà mọi thứ khác phụ thuộc vào. Vì siêu hình học là khoa học tìm kiếm yếu tố tận căn nhất của thực tại, nên nó tất yếu phải tập trung vào hành vi hiện hữu như là đối tượng nghiên cứu cơ bản của nó.
Một số trường phái tư tưởng triết học đã chọn những khía cạnh khác của thực tại làm đối tượng cho siêu hình học. Chẳng hạn, “thuyết sinh lực” cho đối tượng đó là sự sống; “thuyết hiện sinh” cho là sự hiện hữu nhân loại; “thuyết duy tâm” cho là tư tưởng nhân loại; “chủ nghĩa lịch sử” cho là tiến bộ lịch sử. Trong khi đó, Kant đã lấy các điều kiện của tri thức khoa học làm đối tượng cho triết học của mình (“chủ nghĩa phê bình”). Tuy nhiên, tất cả các triết gia này không bao giờ tránh được việc nghiên cứu về hữu thể; những gì họ đã làm chỉ là hạ thấp hữu thể xuống thành một đối tượng cá biệt và giới hạn nào đó mà thôi.
Nguồn gốc lịch sử của khoa học về hữu thể
Kể từ thời của các triết gia tiên khởi, khoa học về hữu thể đã được hiểu là một tri thức phổ quát mà đối tượng của nó là việc khám phá những yếu tố chủ yếu của thực tại. Tuy nhiên, yếu tố này lại luôn bị đồng nhất với một số yếu tố chất thể (như lửa, khí, hay nước), cho đến khi Parmenides đưa ra phát biểu đầu tiên về hữu thể, rằng nó là khía cạnh cơ bản của thực tại. Ông nói: “Hữu thể hiện hữu và phi hữu thể không hiện hữu, đó là con đường thuyết phục (bởi vì nó tuân theo Sự Thật)” (Fr. II, c. 3). Trong khi không hoàn toàn coi nhẹ học thuyết của Parmenides, các triết gia Hy-lạp tiếp theo đã tập trung vào các vấn đề khác của triết học. Tuy nhiên, khi Aristotle vào cuộc, hữu thể đã giành lại vị trí ưu việt của nó như là đối tượng của khoa siêu hình học.
Những tên gọi từng được đặt cho Siêu hình học
Siêu hình học đã được đặt cho những tên gọi khác nhau nhằm nhấn mạnh đến các khía cạnh khác nhau của cùng một khoa học. Aristotle gọi nó là Triết Học Đệ Nhất, vì nó nghiên cứu những nguyên nhân và nguyên lý đệ nhất của thực tại. Tên gọi này diễn đạt cách khéo léo vị trí trung tâm của siêu hình học trong triết học, và nó cũng phân biệt siêu hình học với các nhánh tri thức khác mà Aristotle gọi là các “Triết Học Đệ Nhị”. Siêu hình học là “đệ nhất” không phải do tính tiên phong theo trình tự thời gian. Nó là đệ nhất là bởi vì nó có sự ưu việt tự nhiên trong triết học nói chung, và đối với phần còn lại của các khoa học.
Tên gọi “Siêu Hình Học” (nghĩa đen là “vượt ra ngoài Vật Lý Học”) đã được Andronicus de Rhodes đặt ra để chỉ các công trình của Aristotle về “Triết Học Đệ Nhất” tiếp sau các cuốn sách của ông về Vật Lý Học. Tên gọi này diễn đạt cách khéo léo bản tính của khoa học này, thứ vượt ra khỏi phạm vi thực tại vật chất mà Vật Lý Học nghiên cứu.
Vào thế kỷ XVII, Christian Wolff gọi nó là Hữu Thể Luận, một thuật ngữ bắt nguồn từ cụm từ tiếng Hy-lạp có nghĩa là “nghiên cứu về hữu thể”. Các triết gia duy lý thích sử dụng thuật ngữ “Hữu Thể Luận” này thay vì “Siêu Hình Học”. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa, “Hữu Thể Luận” cũng chỉ diễn đạt cùng một đối tượng của siêu hình học mà thôi.
3. SIÊU HÌNH HỌC VÀ TRI THỨC NHÂN LOẠI
Siêu hình học và tri thức tự phát
Tất cả mọi con người đều có một tri thức về thực tại, tri thức này có được qua ánh sáng của lý trí tự nhiên. Họ biết mình có ý gì khi nói về “hiện hữu”, “sự thật”, hay “sự thiện”. Họ có một số tri thức về bản tính nhân loại và sự khác biệt giữa thực tại “chính yếu” và “tùy phụ”. Hơn nữa, họ có thể nhận biết Thiên Chúa là Nguyên Nhân Đệ Nhất của vũ trụ, Đấng gìn giữ và hướng dẫn mọi sự đến mục đích của chúng. Loại tri thức mà chúng ta có thể gọi là tự phát có liên quan đến các vấn đề hoặc chủ đề cùng được nghiên cứu bởi siêu hình học. Chúng ta không nên ngạc nhiên về điều này, bởi lẽ con người luôn có xu hướng tự nhiên là muốn biết về thế giới, vị trí của anh ta trong đó, cũng như nguồn gốc của vũ trụ và các vấn đề liên quan. Cuộc đời của anh ta phụ thuộc phần lớn vào tri thức mà anh ta có về những câu hỏi này. Do đó, có thể hiểu rằng tri thức này đã được gọi là siêu hình học tự phát hoặc siêu hình học tự nhiên trong trí thông minh nhân loại.2 Tuy nhiên, sự kiện này không làm mất đi nhu cầu về một siêu hình học được phát triển như một khoa học, điều này có nhiều lý do: thứ nhất, bởi vì tri thức tự phát thường không được hoàn thiện hay không chính xác; thứ hai, nó có thể không đủ vững chắc hay rõ ràng trong một số khía cạnh cụ thể; và cuối cùng, vì nó nằm dưới sự ảnh hưởng của các ý thức hệ thịnh hành trong một số giới văn hóa, hoặc vì nó nhận được một sự chấp nhận rộng rãi của số đông.
Bên cạnh đó, chúng ta nên nhớ rằng những xác tín luân lý của mỗi người có ảnh hưởng quyết định đến tri thức của họ về các vấn đề siêu hình. Kinh nghiệm cho thấy rằng khi các cá nhân mất đi sự ngay thẳng về mặt luân lý, thì họ cũng mất đi những xác tín cơ bản về mặt trí tuệ và rơi vào thái độ hoài nghi đối với sự thật. Từ đó, họ đi đến thuyết bất khả tri đối với tri thức mà một người có thể có về Thiên Chúa, cũng như sa vào thuyết tương đối liên quan đến các đòi hỏi của luật luân lý. Cuối cùng, con người sẽ được tôn lên làm trung tâm của toàn thể vũ trụ. Đây là lý do đằng sau sự tồn tại của một số hệ thống triết học đối lập hoàn toàn với sự thật, chẳng hạn như chủ nghĩa Marx, thuyết bất khả tri và thuyết duy tâm: tất cả chúng đều là những cấu trúc lý thuyết được xây dựng thuận theo một số thái độ sai lầm cơ bản về đời sống con người. Dưới tư cách là một khoa học, siêu hình học cũng chịu ảnh hưởng, ở một mức độ nhất định, bởi đời sống luân lý của các triết gia có liên quan. Ảnh hưởng này được thể hiện rõ ràng hơn ở những điểm cơ bản mà tại đó, các câu hỏi đặc biệt và mang tính chuyên môn sẽ phụ thuộc nhiều hơn.
Vai trò dẫn dắt của siêu hình học trong mối quan hệ với các khoa học khác
Vì siêu hình học xử lý những vấn đề cơ bản nhất của tri thức nhân loại, và vì đối tượng nghiên cứu của nó bao gồm toàn bộ thực tại, nên lẽ tự nhiên là các khoa học cá biệt (vốn chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu những khía cạnh cục bộ của sự vật) sẽ phụ thuộc vào siêu hình học theo một cách nào đó. Đối tượng nghiên cứu của mọi khoa học cá biệt là một loại hữu thể cá biệt. Đó là lý do tại sao các nguyên lý siêu hình, các tính chất về hiện hữu, và các khái niệm cơ bản khác về thực tại, bằng cách nào đó, cũng phải được phản ánh trong lĩnh vực nghiên cứu cụ thể của một khoa học cá biệt. Các nguyên lý này được giả định bởi các khoa học cá biệt, và mặc dù không được nghiên cứu cách rõ ràng, chúng vẫn được các khoa học này sử dụng bất cứ khi nào cần đến. Chẳng hạn, khi các nhà vật lý tiến hành các thí nghiệm về động lực học của các vật thể trong hoạt động hóa lý của chúng, họ sử dụng nguyên lý nhân quả với tất cả hàm ý của nó. Tương tự như vậy, khi các nhà sinh học nghiên cứu các chức năng của một cơ thể sống, họ liên tục sử dụng nguyên lý mục đích. Tuy nhiên, đôi khi, sự phát triển của một ngành khoa học cá biệt có thể được dẫn dắt bởi một hệ thống triết học cụ thể chứ không phải bởi tri thức tự phát về ý nghĩa siêu hình. Đây là trường hợp của các khoa học cá biệt như Sử học hay Di truyền học được phát triển theo quan điểm của chủ nghĩa Marx.
Trong nỗ lực đạt tới hiểu biết đầy đủ về đối tượng nghiên cứu của mình, các nhà khoa học thực nghiệm đã thường xuyên rẽ sang các câu hỏi triết học. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi các nhà vật lý đương đại như Heisenberg, Einstein, Planck, De Broglie, Bhor và Schrodinger đã viết các bài luận về chủ đề siêu hình. Niềm khao khát của các khoa học cá biệt nhằm sở hữu sự độc lập tuyệt đối khỏi bất cứ tri thức siêu hình nào (hệ quả của chủ nghĩa thực chứng) đã chưa một lần được hoàn toàn thỏa mãn.
Do đó, có thể thấy rằng siêu hình học đóng một vai trò dẫn dắt đối với các khoa học cá biệt, vì nó là chóp đỉnh của tri thức nhân loại trong trật tự tự nhiên. Vai trò này được gọi cách chính xác là khôn ngoan [sapiential], vì sự khôn ngoan [wisdom] có vai trò riêng biệt trong việc dẫn dắt tri thức và hoạt động của con người dưới ánh sáng của—các nguyên lý đệ nhất và cùng đích của họ.
4. SIÊU HÌNH HỌC LIÊN QUAN THẾ NÀO ĐẾN ĐỨC TIN VÀ THẦN HỌC
Vượt qua và vượt trên tri thức tự nhiên và tri thức khoa học tự phát, có một tri thức thuộc về trật tự siêu nhiên. Nó nảy sinh từ chính Mặc Khải của Thiên Chúa. Đó là một loại tri thức cấp trên vì nó hoàn thiện tất cả tri thức nhân loại và hướng nó đến cùng đích siêu nhiên của con người.
Đức tin trợ giúp Triết học
Một số chân lý siêu hình, mặc dù con người có thể nhận biết một cách tự nhiên, nhưng đã được mặc khải bởi Thiên Chúa. Bên cạnh việc bày tỏ những mầu nhiệm siêu nhiên cho con người, Mặc Khải thần linh còn cho phép con người nhận biết những chân lý tối hậu trọng yếu về thế giới, về con người, và về Thiên Chúa nơi chính Ngài—những chân lý là một phần đối tượng nghiên cứu của siêu hình học. Do hậu quả của tội nguyên tổ, con người khó có thể đạt tới tri thức về các chân lý vốn thiết yếu cho đời sống luân lý này—với sự chắc chắn và không có bất cứ dấu vết nào của sai sót. Vì thế, Thiên Chúa đã mặc khải cho loài người những chân lý, chẳng hạn như sự sáng tạo nên vạn vật từ hư vô (ex nihilo), Sự Quan Phòng của Thiên Chúa, tính thuần linh và bất tử của linh hồn con người, sự hiện hữu và bản tính của một Thiên Chúa chân thật, luật luân lý và cùng đích của con người, và thậm chí là danh xưng xứng hợp của Thiên Chúa xét là Đấng Tự Hữu [Subsisting Act of Being]: “I am who am”.
Nhờ được Mặc Khải trợ giúp, siêu hình học đã nhận lấy một sự thúc đẩy phi thường và vô song trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Các Ki-tô hữu tiên khởi đã lấy làm kinh ngạc trước việc ngay cả một đứa trẻ chỉ vừa mới học về các chân lý của đức tin cũng có thể đưa ra những câu trả lời còn sâu sắc và mang tính chung quyết hơn so với các triết gia Hy-lạp trong những câu hỏi lớn nhất đang đặt ra trước tâm trí con người. Đó là những câu hỏi liên quan đến sự dữ, đau khổ, sự chết, tự do, ý nghĩa cuộc đời và sự thiện thế gian, vốn đã được đức tin Ki-tô Giáo trả lời cách trọn vẹn và triệt để.
Nhờ tác phẩm của các Giáo phụ và các vị Tiến sĩ Hội Thánh, đã có một sự tiến triển không chỉ trong lĩnh vực Thần học Ki-tô Giáo, nhưng còn trong sự hiểu biết triết học về các chân lý tự nhiên được mặc khải. Sự phát triển này cuối cùng đã được gọi là Triết học Ki-tô Giáo: trong đó, hậu tố “Ki-tô Giáo” xuất hiện không phải bởi nội dung và cách thức chứng minh hợp lý nội tại của nó trong trật tự tự nhiên, nhưng đúng hơn, vì nó đã được phát triển dưới sự linh hứng và chỉ dẫn từ Đức tin Ki-tô Giáo.3
Việc Thiên Chúa mặc khải các chân lý tự nhiên mà siêu hình học nghiên cứu không làm cho nó trở thành một khoa học thừa thãi. Trái lại, điều này hẳn phải thúc đẩy siêu hình học tiến đến một tri thức sâu sắc hơn về những chân lý như vậy, bởi lẽ Thiên Chúa đã mặc khải chúng một cách chính xác để con người có thể khám phá chúng sâu hơn bằng trí óc của mình và nhận được sự nuôi dưỡng trí tuệ thông qua chúng.
Triết học trong việc phục vụ Đức tin
Cũng như lý trí phục vụ đức tin, siêu hình học đóng vai trò như một khí cụ khoa học của thần học. Một khi được hoàn thiện nhờ sự dẫn dắt của đức tin, nó sẽ trở thành một khí cụ có giá trị nhằm đạt tới một hiểu biết tốt hơn về những mầu nhiệm siêu nhiên vốn cấu thành đề tài của khoa Thần học.
a) Tri thức về trật tự siêu nhiên giả thiết tri thức về trật tự tự nhiên. Đây là hệ quả từ sự kiện rằng ân sủng không thay thế bản tính, nhưng nâng cao nó. Chẳng hạn, việc nghiên cứu về ân sủng và các nhân đức được phú bẩm đòi hỏi phải có sự hiểu biết về tính thuần linh của linh hồn, rằng nó căn bản là tự do và hướng về Thiên Chúa, Đấng là cùng đích của con người. Trong Ki-tô học, để nói rằng Chúa Giê-su Ki-tô là “người thật”, đòi hỏi phải có sự hiểu biết đúng đắn về bản tính con người. Nếu tội lỗi được hiểu dưới khía cạnh thần học, thì người ta cần phải biết về những năng lực hay khả năng của con người, cách đặc biệt là ý chí và đam mê (hay cảm xúc), cũng như có tri thức đầy đủ về bản tính của sự thiện và sự dữ. Sau cùng, để nghiên cứu về Thiên Chúa Ba Ngôi và Mầu Nhiệm Nhập Thể, tri thức về khái niệm bản tính và ngôi vị là không thể không có. (Trong Thiên Chúa, có ba Ngôi Vị thần linh với một bản tính thần linh; Chúa Giê-su Ki-tô là một Ngôi vị—Ngôi vị thần linh trong hai bản tính, bản tính thần linh và bản tính nhân loại). Quả thực, thật khó để có được tri thức đầy đủ về các chân lý mà Thiên Chúa đã mặc khải nếu không có tri thức tự nhiên sâu sắc từ trước đó.
b) Nếu thần học coi thường tri thức siêu hình, nó sẽ không thể đạt đến cấp bậc của một khoa học và sẽ rơi vào sai lầm hay mơ hồ. Tri thức chỉ có tính khoa học khi nội dung của nó có trật tự, có nền móng vững chắc, và được diễn đạt chính xác, nghĩa là tạo thành một tổng thể mạch lạc. Vì thần học phải sử dụng tri thức tự nhiên về thực tại, nên nó trở thành một khoa học khi tri thức đó đã được làm phong phú từ trước bởi một khoa học đóng vai trò khí cụ, thứ mà trong trường hợp này là siêu hình học. Siêu hình học mang lại độ chính xác cần thiết cho ý nghĩa của các thuật ngữ nhận được thông qua tri thức tự phát. Hơn nữa, những giải thích sai lệch về tín điều trong dòng lịch sử đã buộc thần học phải tìm kiếm sự chính xác về mặt thuật ngữ và khái niệm từ một quan điểm siêu hình. Do đó, việc vứt bỏ những gì đã đạt được thông qua nỗ lực này chắc chắn sẽ làm nảy sinh nguy cơ mắc phải những sai lầm tương tự. Chẳng hạn, những thuật ngữ như “biến đổi bản thể”, “ngôi hiệp” (sự kết hợp của nhân tính với Ngôi Lời), hay “chất thể và mô thức của các bí tích” là không dễ dàng để thay thế, bởi lẽ chúng diễn tả cách sáng tỏ ý nghĩa thực sự của những điều thuộc về đức tin; do đó, tránh được những sai lầm có thể xảy ra đối với nó.
Bên cạnh đó, siêu hình học là thứ cần thiết để có thể hiểu được cách diễn đạt về các tín điều mà Huấn quyền đề xướng. Thánh Giáo Hoàng Pi-ô X, trong Thông điệp Doctoris Angelici (ban hành ngày 29 tháng 6 năm 1914) đã nói rằng: “Nếu những nguyên lý như vậy (siêu hình học của Thánh Tô-ma) bị bác bỏ hoặc bóp méo, thì nó tất yếu dẫn tới việc những người nghiên cứu các khoa học thiêng liêng sẽ thậm chí không thể nắm bắt được ý nghĩa của những ngôn từ do Huấn quyền sử dụng nhằm diễn đạt các tín điều mà Thiên Chúa mặc khải. Do đó, chúng tôi ước mong rằng tất cả các giáo viên triết học và thần học thiêng liêng luôn luôn cảnh giác rằng, sự thất bại trong việc theo chân của Thánh Tô-ma, trên hết là trong các vấn đề siêu hình, sẽ đem đến tác hại nghiêm trọng.”
Sau cùng, chúng ta cũng phải nhớ lại rằng các tín biểu cũng đã sử dụng nhiều thuật ngữ chính xác vốn đã được hiểu rõ hơn qua sự trợ giúp của khí cụ là khoa học siêu hình học.4
CHÚ THÍCH
* Trong Tiếng La-tinh, từ tương đương với “hữu thể” [“being”] là ens, phát xuất từ động từ esse (hiện hữu [to be]). Hiện tại phân từ trong Tiếng La-tinh được sử dụng để chỉ một chủ thể thực hiện một hành động mà động từ nguyên gốc biểu lộ. Trong Tiếng Anh, chủ thể thường được chỉ định bằng cách thêm hậu tố “-er” [chẳng hạn như: paint–painter, design–designer], mặc dù một số tên chủ thể có nguồn gốc từ các hiện tại phân từ tương ứng của chúng trong Ngôn Ngữ Romance (chẳng hạn như: study–student, participate–participant), và ngoại lệ, một hiện tại phân từ (being) Tiếng Anh là nguồn gốc của một tên gọi (“a being”) [Vậy nên việc dịch từ being sang Tiếng Việt đã gây ra sự lúng túng và nhầm lẫn cho một số dịch giả. Trong khi bản văn gốc muốn nói đến hành vi hiện hữu thì bản văn Tiếng Việt đôi khi lại dịch thành hữu thể, tức cái hiện hữu]. Trong Tiếng Tây Ban Nha, khó khăn như vậy không tồn tại: ens được dịch là ente, trong khi esse được dịch là ser. Vì vậy, trong bản dịch Tiếng Anh này, chúng tôi đã tuân theo sự phân biệt quan trọng giữa hữu thể (“ens”) và hành vi hiện hữu (“esse”) do các tác giả thực hiện, nó hoàn toàn phù hợp với tư tưởng của Thánh Tô-ma.
Ở bản dịch Tiếng Việt mà bạn đang đọc, người dịch sẽ cố gắng tra cứu ở cả hai bản Tiếng Anh và Tiếng Tây Ban Nha nhằm xác định nghĩa đúng của từ gốc. Ngoài ra, ở một số chỗ, khi being mang nghĩa là hiện tại phân từ của to be sẽ được viết ngắn gọn là hiện hữu thay vì việc/hành vi hiện hữu.
1 St. Thomas Aquinas, In IV Metaphysicorum, lect. 1.
2 Cách diễn đạt này được H. Bergson sử dụng liên quan đến triết học của Plato và Aristotle: “Nếu ai đó tách rời chất thể dễ hư nát được sử dụng trong việc xây dựng dinh thự bao la này, thì một cấu trúc vững chắc vẫn còn ở lại. Cấu trúc này phác họa nên một siêu hình học, thứ mà đối với phán đoán của chúng ta, là siêu hình học tự nhiên của trí thông minh nhân loại.” (Evolution créatrice, Alcan, Paris 1909, p. 352).
3 Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ này, một cuộc tranh luận về tính khả hữu của một “triết học Ki-tô Giáo” đã nảy sinh. Bất chấp những ý kiến khác nhau về vấn đề này, điều đáng nhấn mạnh ở đây là triết học này vẫn được tiến hành và phát triển thông qua việc sử dụng lý trí tự nhiên. Do đó, không có sự đối lập nào giữa Ki-tô Giáo và triết học; chính vì không thể dung hợp hai điều này, Heidegger đã sử dụng thuật ngữ “sắt làm từ gỗ” để ám chỉ triết học Ki-tô Giáo (x. Einföhrung in die Metaphysik, Halle a.S. 1953, p. 5).
4 Công đồng Va-ti-ca-nô II đã tái khẳng định tính cần thiết của một sự đào tạo triết học vững chắc dựa trên triết học Ki-tô Giáo vĩnh cửu để nghiên cứu Thần học. (X. Công đồng Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Optatam Totius, số 15-16).
SÁCH THAM KHẢO
PLATO, Republic, V. 474b ff.; VII, 514a ff.
ARISTOTLE, Metaphysica, I, ch. 1-2; II, 1; IV, 1; VI, 1; XI, 3.
SAINT THOMAS AQUINAS, In Metaph., Prooem.; I, lect. 2; II, 2; III, 4-6; IV, 1, 4 and 5; VI, 1; XI, 1, 3 and 7; In Boeth. de Trinitate, lect. 2, q. 1.
E. GILSON, El filósofo y la teología, 2nd ed., Monograma, Madrid 1967.
J. PIEPER, Defensa de la filosofía, Herder Barcelona 1973.
J. SANGUINETI, La filosofía de la ciencia, EUNSA, Pamplona 1978.
J. MARITAIN, Siete lecciones sabre el ser, Desclée de Brouwer, Buenos Aires 1950.
L. DE RAEYMAEKER, Filosofía del ser, Gredos, Madrid 1968.
S. RAMIREZ, El concepto de filosofía, León ed., Madrid 1954.
C. CARDONA, Metafísica de la opción intelectual, 2nd ed., Rialp, Madrid 1973.
A. GONZÁLEZ ALVAREZ, Introducción a la metafísica, Universidad Nacional de Cuyo, Mendoza 1951.