SKKN Sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm phát huy tính tích học tập của học sinh trong dạy học môn Khoa học lớp 5

Bạn đang xem

20 trang mẫu

của tài liệu “SKKN Sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm phát huy tính tích học tập của học sinh trong dạy học môn Khoa học lớp 5”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

MỤC LỤC
STT
Đề mục
Trang
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
 13
14
 15
16
17
18
19
20
21
 22
 23
 24
 25
 26
27
28
29
30
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài....................................................................
2. Mục đích nghiên cứu.............................................................
3. Đối tượng nghiên cứu............................................................
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận 
1. Khái niệm phương pháp thí nghiệm. 
2. Bản chất của phương pháp thí nghiệm.
3. Vai trò của phương pháp thí nghiệm trong việc vận dụng để dạy môn khoa học lớp 5.
II. Thực trạng của việc sử dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học môn khoa học lớp 5.
1. Thực trạng về cơ sở vật chất phục vụ cho dạy thí nghiệm ở các nhà trường:
2. Thực trạng học sinh học thí nghiệm: 
3. Thực trạng dạy thí nghiệm của giáo viên:
4. Khảo sát học sinh: 
III. Một số biện pháp phát huy tính tích cực học tập của học sinh thông qua việc sử dụng phương pháp thí nghiệm trong giờ khoa học.
1. Giáo viên phải xác định rõ mục đích, lựa chọn thí nghiệm phù hợp
2. Chuẩn bị chu đáo dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho từng bài dạy cụ thể
3. Xây dựng góc học tập môn Khoa học. Khuyến khích học sinh, phụ huynh học sinh trong lớp cùng tham gia chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho bài học Khoa học.
3.1. Xây dựng góc học tập môn Khoa học 
3. 2. Khuyến khích học sinh, phụ huynh học sinh trong lớp cùng tham gia chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho bài học Khoa học
4. Vận dụng kỹ thuật dạy học: Kỹ thuật “Trình bày một phút” trong việc hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm.
5. Sử dụng phương pháp thí nghiệm theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh
6. Một số hoạt động minh họa cho bài dạy cụ thể: 
6.1. Ví dụ 1
6.2. Ví dụ 2
6.3. Ví dụ 3
IV. Một số kết quả đạt được
1. Đối với giáo viên
2. Đối với học sinh
C. PHẦN KẾT LUẬN
1
2
2
2
3
3
3
4
5
5
5
5
6
6
6
8
9
9
10
11
12
13
13
14
16
18
18
18
20
A. PHẦN MỞ ĐẦU
 I. Lí do chọn đề tài 
Khoa học là môn học về các sự vật hiện tượng tự nhiên, về cơ thể và sức khỏe của con người. Có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những kiến thức khoa học sơ đẳng ban đầu về các hiện tượng và sự vật gần gũi trong tự nhiên, bao gồm cả con người và các hoạt động của con người tác động vào thế giới tự nhiên; bước đầu hình thành một số kỹ năng quan sát, dự đoán và vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống. 
Môn Khoa học ở lớp 5 được xây dựng trên cơ sở nối tiếp những kiến thức về tự nhiên của môn Tự nhiên và Xã hội các lớp 1,2,3. Nội dung chương trình được cấu trúc đồng tâm mở rộng và nâng cao theo các chủ đề: Con người và sức khỏe; Vật chất và năng lượng; Thực vật và động vật. Các chủ đề này được mở rộng và đào sâu ở lớp 5. Với trình độ phát triển tư duy của học sinh lớp cuối cấp Tiểu học, chương trình môn Khoa học lớp 5 đã đưa vào những nội dung về tính chất, đặc điểm của các quá trình, hiện tượng trong tự nhiên, trong cơ thể người. Các hiện tượng hay quá trình diễn ra trong tự nhiên nhiều khi rất khó quan sát trong điều kiện bình thường, bằng mắt thường. Bởi chúng thường diễn ra quá nhanh hoặc quá chậm hoặc “vô hình”. Những kiến thức về tính chất và sự biến đổi của các chất thì lại rất trừu tượng, muốn nhận thấy chúng, cần phải tạo ra sự tương tác, phản ứng giữa các chất, nghĩa là phải tiến hành thí nghiệm. Bên cạnh đó khoa học còn là môn học tiền đề để sau này các em học tốt môn hóa học, vật lí ở THCS và THPT. Nhưng thực tế cho thấy nhiều học sinh mặc dù nắm chắc phần lí thuyết nhưng khi thực hành thí nghiệm thì vô cùng lúng túng, chưa thành thạo hoặc chưa biết cách thao tác thí nghiệm. Các em có rất ít trải nghiệm thực tế về kĩ năng làm thí nghiệm. Việc lĩnh hội kiến thức của các em còn xa rời thực tiễn, các em khó hình thành kĩ năng, kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật. Mặt khác học sinh đa phần là người dân tộc thiểu số, các em ít được tiếp cận với phát triển khoa học. Không những thế Trường Tiểu học Cẩm Châu đóng trên địa bàn xã vùng cao, trình độ dân trí của địa phương không đồng đều, điều kiện kinh tế chưa phát triển nên việc chuẩn bị đồ dùng, sưu tầm đồ dùng phục vụ cho thí nghiệm còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy để học sinh học tốt môn Khoa học ở lớp 5, giúp các em khai thác hết giá trị của dạy học thí nghiệm, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, gắn lí thuyết với thực tiễn, thỏa mãn nhu cầu tò mò, khám phá tri thức của các em, giúp học sinh hiểu rõ bản chất của các sự vật hiện tượng, mạnh dạn trong các hoạt động, thì giáo viên cần vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực trong đó có thể lựa chọn và phối hợp nhiều phương pháp khác nhau. Trong khuôn khổ đề tài này tôi chỉ đưa ra một số kinh nghiệm trong việc “Sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm phát huy tính tích học tập của học sinh trong dạy học môn Khoa học lớp 5” sao cho đạt hiệu quả cao nhất để góp một phần nhỏ vào việc thực hiện nâng cao hiệu quả giáo dục nói chung, nâng cao chất lượng dạy và học Khoa học ở Trường Tiểu học Cẩm Châu nói riêng.
II. Mục đích nghiên cứu: 
- Vận dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học môn Khoa học lớp 5 theo hướng phát huy tính cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
 - Từ cách đổi mới phương pháp dạy của thầy góp phần đổi mới cách học của trò. Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua các thí nghiệm.
III. Đối tượng nghiên cứu: 
	- Quá trình dạy học môn Khoa học lớp 5 bằng phương pháp thí nghiệm.
	- Một số thí nghiệm nhằm giúp học sinh lớp học tốt môn Khoa học lớp 5.
IV. Phương pháp nghiên cứu: 
1. Phương pháp điều tra:
- Mục đích để tìm hiểu các phương pháp dạy học của giáo viên; tìm hiểu tính tích cực nhận thức của học sinh.
2. Phương pháp thực nghiệm:
- Dạy thực nghiệm tại lớp 5A, để đối chiếu kiểm nghiệm với đầu năm, đánh giá hiệu quả nghiên cứu.
 3. Phương pháp trực quan:
- Tìm hiểu nội dung sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài tập
- Trao đổi với giáo viên - học sinh để tìm hiểu thực trạng dạy - học môn Khoa học lớp 5.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Khái niệm phương pháp thí nghiệm: 
 	Thí nghiệm có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển nhận thức của con người về thế giới. Thí nghiệm là một phần của hiện thực khách quan được thực hiện hoặc tái tạo lại trong những điều kiện đặc biệt, trong đó con người có thể chủ động điều khiển các yếu tố tác động vào quá trình xảy ra để phục vụ cho các mục đích nhất định. Thí nghiệm giúp con người gạt bỏ những cái phụ, không bản chất để tìm ra cái bản chất của sự vật hiện tượng. Thí nghiệm giúp con người phát hiện ra những quy luật còn ẩn náu trong tự nhiên. Mặt khác nó còn giúp con người kiểm chứng, làm sáng tỏ những giả thuyết khoa học [9].
Thí nghiệm là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn, là tiêu chuẩn đánh giá tính chân thực của kiến thức, hỗ trợ đắc lực cho tư duy sáng tạo. Nó là phương tiện duy nhất giúp hình thành ở học sinh kỹ năng, kỹ xảo thực hành và tư duy sáng tạo. Thí nghiệm được thực hiện ở tất cả các khâu của quá trình dạy học.
Phương pháp thí nghiệm là phương pháp giáo viên tổ chức cho học sinh sử dụng các dụng cụ thí nghiệm để tái tạo lại những hiện tượng đã xảy ra trong thực tế để tìm hiểu và rút ra những kết luận khoa học [9]. Qua đó tạo niềm tin vào khoa học; nâng cao tính tự lực và khả năng tư duy khoa học khi tiếp xúc với các hiện tượng thực tế; làm quen và hình thành ở học sinh kĩ năng sử dụng các dụng cụ thí nghiệm. Như vậy phương pháp thí nghiệm có sự hợp tác giữa thầy và trò để thực hiện thành công thí nghiệm phát hiện ra tri thức của bài học. Phương pháp thí nghiệm làm thay đổi quan niệm, cách nhìn nhận của giáo viên và học sinh về vai trò của mình trong quá trình dạy học. Học sinh sẽ là người trực tiếp thực hiện thí nghiệm từ đó phát hiện ra tri thức của bài học. Mục tiêu của phương pháp thí nghiệm là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp thí nghiệm còn chú ý nhiều đến việc phát triển tư duy và nâng cao tính tự lực, tích cực của học sinh. Do vậy để sử dụng tốt phương pháp thí nghiệm trong dạy học Khoa học đòi hỏi giáo viên phải nắm chắc bản chất của phương pháp thí nghiệm.
2. Bản chất của phương pháp thí nghiệm: 
Phương pháp thí nghiệm là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn. Thí nghiệm được sử dụng theo các cách khác nhau nhằm giúp học sinh thu thập và xử lí thông tin qua đó rút ra được các khái niệm, quy luật, tính chất của các sự vật, hiện tượng. Bản chất của phương pháp thí nghiệm là lấy học sinh làm trung tâm thông qua đó giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện các thí nghiệm đơn giản từ đó phát hiện ra tri thức của bài học. Học sinh tích cực chủ động tham gia vào các hoạt động thí nghiệm từ khâu nắm mục đích của thí nghiệm sau đó lựa chọn thí nghiệm, lựa chọn dụng cụ, tiến hành thí nghiệm, quan sát và rút ra kết quả. Qua các thí nghiệm, học sinh thể hiện sự hiểu biết của mình. Sự hiểu biết ấy được chứng minh thông qua các quá trình học sinh tự lực làm thí nghiệm và các kết quả của quá trình ấy. Với phương pháp thí nghiệm khả năng tư duy của học sinh cũng được phát huy một cách tối đa. Học sinh có cơ hội tìm hiểu khám phá tri thức thông qua các bài tập thực tế và các thí nghiệm thực hành. Học sinh bước đầu được làm quen với hình thức nghiên cứu thỏa mãn nhu cầu tò mò khám phá tri thức của mình. Học sinh mạnh dạn trong các hoạt động và tự tin thể hiện khả năng sáng tạo của mình. Phương tiện thí nghiệm hỗ trợ, thúc đẩy học sinh muốn được tham gia vào các hoạt động thí nghiệm điều đó rất có lợi trong qúa trình chiếm lĩnh tri thức của người học. Học sinh được chủ động sử dụng các dụng cụ thí nghiệm và các chất tham gia vào thí nghiệm để tìm ra kiến thức. Điều đó cũng rất thuận lợi cho các em phát triển các giác quan, đảm bảo cho sự phát triển toàn diện. Trong phương pháp thí nghiệm giáo viên chỉ là người hướng dẫn gợi mở mà không làm thay học sinh. Trên cơ sở đó học sinh phát triển tư duy logic, năng lực cá nhân và hoàn thành tốt công việc được giao.
Như vậy với phương pháp thí nghiệm học sinh đã phát huy được sự sáng tạo và khả năng hiểu biết của mình đem lại hiệu quả giáo dục rất lớn.
3. Vai trò của phương pháp thí nghiệm trong việc vận dụng để dạy môn khoa học lớp 5: 
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm, bản chất của phương pháp thí nghiệm và đặc điểm nội dung của môn Khoa học lớp 5 tôi thấy vận dụng phương pháp thí nghiệm vào dạy môn Khoa học là rất cần thiết vì nó phù hợp với nội dung kiến thức của môn. Do khoa học là một môn học tích hợp kiến thức của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nên nội dung của nó mang tính thực tiễn cao. Những hiểu biết mà học sinh tiếp thu được sẽ ứng dụng được rất nhiều vào trong cuộc sống. Học sinh có thể tư duy tranh luận để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tế từ đó tìm ra kiến thức của bài học, hình thành niềm tin khoa học. Phương pháp thí nghiệm đóng vai trò quan trọng giúp các em hiểu chúng và làm sáng tỏ những giả thuyết khoa học này.
Quá trình nhận thức của học sinh mang tính trực quan cụ thể: Tri giác của học sinh gắn liền với hoạt động thực tiễn, trí nhớ mang tính chất hình ảnh, cụ thể, trực tiếp. Dạy học có sử dụng thí nghiệm luôn đặt học sinh vào những hoạt động trực tiếp, lấy hoạt động của học sinh làm trung tâm, dưới sự hướng dẫn của giáo viên học sinh thực hành thí nghiệm dựa vào kiến thức, kinh nghiệm có sẵn để tiến hành thí nghiệm. Bằng các hoạt động tự lực thực hiện thí nghiệm học sinh sẽ nắm bắt kiến thức một cách sâu sắc và vững chắc.
Thí nghiệm còn giúp học sinh hiểu được bản chất của vấn đề một cách nhanh chóng và chính xác, học sinh được đặt vào tình huống có vấn đề và tự mình lựa chọn thí nghiệm, tự tổ chức thí nghiệm thông qua sự hướng dẫn của giáo viên. Học sinh tự thực hiện thí nghiệm rồi trình bày trước lớp, dù làm hỏng hay làm tốt, các em đều được trình bày và giải thích kết luận của mình. Chính qua những lần thử nghiệm liên tiếp ấy, qua những sai lầm học sinh sẽ rút ra kinh nghiệm và hiểu sâu bản chất của vấn đề.
Thí nghiệm có tác dụng kích thích động cơ học tập của học sinh. Khi nhận được các vấn đề, học sinh nảy sinh nhu cầu muốn tiến hành thí nghiệm để giải quyết vấn đề được nêu ra. Học sinh sẽ tự nghiên cứu, nêu ra các ý tưởng, những khả năng có thể xảy ra khi thực hiện thí nghiệm rồi dần dần chiếm lĩnh tri thức. Hơn thế nữa, khi tiến hành thí nghiệm học sinh luôn ở trạng thái vận động, sử dụng mọi giác quan, điều này không chỉ giúp học sinh lĩnh hội được nhiều thông tin, kiến thức, kĩ năng mà còn giúp học sinh phát triển thể chất, thẩm mĩ Đây là mục tiêu phát triển toàn diện mà mục đích của giáo dục đề ra.
Vì vậy sử dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học nhằm đạt được mục tiêu dạy học đã đề ra.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM TRONG DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 5: 
1. Thực trạng về cơ sở vật chất phục vụ cho dạy thí nghiệm môn Khoa học ở nhà trường:
Hiện nay, đồ dùng thí nghiệm ở các nhà trường còn thiếu, chưa được đầu tư về các vật dụng, đồ dùng phục vụ cho việc thực hành thí nghiệm của giáo viên và học sinh. Bộ đồ dùng được cấp từ sau năm 2000 đến nay đã xuống cấp, hầu như không sử dụng được. Phòng thiết bị dạy học không đảm bảo điều kiện phục vụ cho giáo viên và học sinh làm thí nghiệm.
Nhà trường không có nhân viên chuyên trách riêng về thiết bị mà do giáo viên văn hóa kiêm nhiệm không được đào tạo về chuyên môn. Bởi vậy đồ dùng thí nghiệm do giáo viên giảng dạy tự chuẩn bị.
2. Thực trạng học sinh học thí nghiệm trong môn Khoa học: 
Phần lớn học sinh ham thích học khoa học. Học sinh nắm rất tốt về lí thuyết nhưng thiếu kĩ năng làm thí nghiệm. Các em có rất ít trải nghiệm thực tế qua thực hành làm thí nghiệm. Chính vì vậy việc lĩnh hội kiến thức của học sinh luôn xa rời thực tiễn, học sinh khó hình thành kĩ năng kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật.
Việc chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm của học sinh chưa tích cực do các em ngại tìm kiếm, ngại sưu tầm, 
3. Thực trạng dạy thí nghiệm của giáo viên trong môn Khoa học:
Một bộ phận không nhỏ giáo viên còn ngại đầu tư, công sức. Cho rằng môn học này không quan trọng bằng môn Toán, Tiếng Việt, 
Bên cạnh đó khi làm thí nghiệm các tiết dạy rất dễ thất bại nếu không làm thí nghiệm trước, không có sự chuẩn bị chu đáo kĩ càng về đồ dùng dạy học bởi việc chuẩn bị đồ dùng mất rất nhiều thời gian, kinh phí, 
Một số giáo viên còn lúng túng trong việc sử dụng các thiết bị thí nghiệm, chưa biết cách khai thác nên chưa thu hút được học sinh tham gia, khiến cho hiệu quả giờ học chưa cao.
4. Khảo sát học sinh: 
Trong quá trình giảng dạy học về khoa học, tôi tiến hành khảo sát chất lượng học sinh nắm được thí nghiệm và vận dụng vào thực tiễn lớp 5A và nhận được kết quả như sau:
Lớp
TSHS
Số HS nắm chắc lí thuyết và thực hành tốt thí nghiệm
Số HS nắm chắc lí thuyết nhưng chưa thực hành tốt thí nghiệm
Số HS chưa nắm chắc lí thuyết, chưa thực hành tốt thí nghiệm
SL
TL
SL
TL
SL
TL
5A
33
7
21%
16
48%
10
31%
Từ bảng kết quả trên cho thấy: Số học sinh nắm được lí thuyết và thực hành thí nghiệm thành thạo, có hứng thú với thực hành thí nghiệm còn hạn chế. Những học sinh có đam mê khoa học, thích nghiên cứu, tìm tòi và nắm chắc lí thuyết từ đó biết vận dụng vào thực tiễn, có tư duy kĩ thuật còn rất ít. 
Số học sinh trong lớp nắm được lí thuyết nhưng thực hành thí nghiệm chưa tốt hoặc chưa nắm được lí thuyết và chưa biết cách thực hành thí nghiệm còn nhiều. 
Từ những thực trạng trên đây, việc sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh vào dạy môn Khoa học ở nhà trường Tiểu học là một việc làm vô cùng cần thiết giúp cho các em say mê, hứng thú trong học khoa học, lĩnh hội những tri thức khoa học một cách dễ dàng, tạo điều kiện củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc. Tạo ra không khí học tập sôi nổi, kích thích học sinh chủ động tìm kiếm tri thức trong nội dung từng bài học cụ thể.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁP PHÁT HUY TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH THÔNG QUA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM TRONG GIỜ KHOA HỌC:
1. Giáo viên phải xác định rõ mục tiêu, lựa chọn thí nghiệm phù hợp:
Qua tìm hiểu, dự giờ và trao đổi với đồng nghiệp, tôi nhận thấy việc áp dụng phương pháp thí nghiệm trong môn Khoa học lớp 5 nói riêng và môn Khoa học nói chung ở các  trường Tiểu học có thể chia ra các cách tiến hành thí nghiệm mà giáo viên thường dùng như sau:
Cách 1: Giáo viên nêu kiến thức khoa học.
- Giáo viên làm thí nghiệm để minh họa học sinh quan sát và đối chiếu kết quả thí nghiệm với kiến thức khoa học.
Cách 2: Giáo viên nêu kiến thức khoa học.
- Yêu cầu học sinh dự kiến kết quả thí nghiệm.
- Giáo viên làm thí nghiệm.
- Học sinh giải thích diễn biến thí nghiệm.
Cách 3: Giáo viên nêu kiến thức khoa học.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm.
- Học sinh làm thí nghiệm và đối chiếu kết quả với kiến thức khoa học.
Cách 4: Giáo viên yêu cầu học sinh nêu kiến thức khoa học.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm.
- Học sinh làm thí nghiệm và đối chiếu kết quả với kiến thức khoa học.
Cách 5: Giáo viên nêu vấn đề: Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm để tìm ra câu trả lời cho câu hỏi.
Cách 1 thực chất là dạng thí nghiệm chứng minh do giáo viên tiến hành. Khi tiến hành phương pháp thí nghiệm theo cách này, giáo viên chưa phát huy được tính tích cực học tập của học sinh vì những lí do sau:
- Kiến thức khoa học đã nêu ra không còn kích thích được trí tò mò của học sinh. 
- Thí nghiệm do giáo viên tiến hành, học sinh chỉ cần quan sát theo dõi nên khó tập trung chú ý.
- Thí nghiệm do giáo viên tiến hành nên xác xuất thành công thường rất cao, ít có tình huống sư phạm xảy ra. Vì vậy, không kích ứng khả năng tư duy và óc phán đoán của học sinh.
Ở cách 2, mặc dù vẫn là giáo viên làm thí nghiệm nhưng mức độ tham gia của học sinh đã tích cực hơn so với cách 1. Làm theo cách 2, học sinh được dự kiến kết quả thí nghiệm nên phần nào kích thích trí tò mò, khơi dậy khả năng phán đoán của các em. Học sinh sẽ hào hứng theo dõi thí nghiệm để so sánh với kết quả mà mình dự đoán. Ngoài ra, các em còn được giải thích diễn biến của thí nghiệm nên không khí học tập sôi nổi hơn. Mỗi em đưa ra cách giải thích riêng của mình sao cho phù hợp với kết quả tìm được.
Theo cách 3, HS bắt đầu được làm thí nghiệm, nhưng sự tích cực của HS lại thể hiện ở các mức độ khác nhau. Khi được trực tiếp thực hành trên dụng cụ thí nghiệm, các em sẽ rất hào hứng. Đặc biệt, HS được tiến hành thí nghiệm theo nhóm sẽ tăng cường tinh thần tập thể, dễ thảo luận với nhau, cùng giúp đỡ nhau thực hiện nhiệm vụ nhóm mình. Tuy vậy ở cách 3, GV vẫn là người đưa ra cách tiến hành thí nghiệm, HS chưa thực sự được chủ động khám phá kiến thức mới.
Trong sách giáo viên (SGV) Khoa học 5, phần lớn các thí nghiệm được gợi ý tiến hành theo cách 3, đó là: GV nêu kiến thức khoa học - GV hướng dẫn HS làm thí nghiệm - HS làm thí nghiệm đối chiếu kết quả thí nghiệm với kiến thức khoa học. Như vậy, theo kết quả điều tra nói trên, GV đã có sự sáng tạo, linh hoạt (so với SGV) trong việc sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm phát huy tính tích cực học tập của HS.
Với 5 cách tiến hành thí nghiệm đã nêu, tuy cách sau có nhiều ưu điểm hơn cách trước, nhưng vẫn chưa phát huy tối đa tính tích cực học tập của HS. Các em chỉ quan sát là chủ yếu, chưa được trực tiếp sử dụng và thao tác trên các dụng cụ thí nghiệm. Ở cách 3 và cách 4, HS được làm thí nghiệm để tìm ra kiến thức dưới sự hướng dẫn của GV. Song cách làm việc của HS vẫn được GV chỉ dẫn khá cụ thể nên các em chỉ việc áp dụng một cách máy móc, không có sự sáng tạo, mặc dù HS có thể có cách làm khác. Ngoài ra, khi tất cả các nhóm cùng làm theo một cách thì khó có sự so sánh, đối chiếu kết quả đa dạng giữa các nhóm tổ.
Trong khi đó giờ Khoa học, làm thí nghiệm không phải chỉ để thay đổi hình thức học tập, làm thí nghiệm cho vui mà thông qua thí nghiệm giúp học sinh lĩnh hội các kiến thức khoa học một cách rõ ràng, dễ hiểu và có thể nhớ lâu. Do đ