SKKN Một số giải pháp giúp học sinh học tốt hơn về kiến thức hình tam giác, hình thang ở lớp 5

Bạn đang xem tài liệu “SKKN Một số giải pháp giúp học sinh học tốt hơn về kiến thức hình tam giác, hình thang ở lớp 5”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

	SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
 PHÒNG GD&ĐT HUYỆN TRIỆU SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT HƠN VỀ KIẾN THỨC HÌNH TAM GIÁC, HÌNH THANG 
Ở LỚP 5
.
 Người thực hiện: Nguyễn Thị Thu
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường TH Đồng Tiến, Triệu Sơn
 SKKN thuộc môn: Toán
THANH HOÁ NĂM 2018
MỤC LỤC
Trang
 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu 
1.3. Đối tượng nghiên cứu 
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm	
 2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận 
2.1.1.Cơ sở toán học
2.1.2. Phương pháp dạy và học môn Toán
2.2. Thực trạng
2.2.1.Về sách giáo khoa
2.2.2. Về học sinh
2.2.3.Về giáo viên
2. 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Phân tích nội dung, phương pháp dạy 2 loại hình
2.3.2. Giải pháp
2.4. Hiệu quả đạt được 
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
 Kết luận 
 3.2 Kiến nghị 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trang 3
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 7
Trang 7
Trang 7
Trang 7
Trang 9
Trang 9
Trang 9
Trang 15
Trang 16
Trang 18
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT HƠN
VỀ KIẾN THỨC HÌNH TAM GIÁC, HÌNH THANG Ở LỚP 5
1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Như chúng ta đã biết, mục đích của quá trình dạy học ở Tiểu học là nhằm cung cấp tới học sinh những kiến thức cơ bản, toàn thể về tự nhiên và xã hội. Nhằm giúp học sinh từng bước hình thành về nhân cách, từ đó trang bị cho học sinh các phương pháp ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Mục tiêu đó được thực hiện thông qua việc dạy học các môn và thực hiện theo định hướng yêu cầu giáo dục. Trong chín môn học, môn toán dóng vai trò quan trọng, nó cung cấp kiến thức cơ bản về số học, các yếu tố hình học, đo đại lượng, giải toán. Nó còn giúp học sinh phát triển trí thông minh, tư duy sáng tạo, kích thích óc tò mò, tự khám phá và rèn luyện một phong cách làm việc khoa học. 
 Bên cạnh đó, quá trình dạy học Toán ở Tiểu học cơ bản là cung cấp cho học sinh những cơ sở ban đầu về Toán, trong đó các bài toán có nội dung hình học được xem là năm nội dung chính. Đối với học sinh lớp 5, yêu cầu về các yếu tố hình học được nâng cao, các em cần tổng hợp được các kiến thức về hình học từ các lớp dưới mới có thể tiếp thu được kiến thức tiếp theo.
Song trong thực tiễn giảng dạy tại lớp 5B, tôi thấy các bài toán có nội dung hình học đa số học sinh còn lúng túng khi trình bày lời giải. Hình thức trình bày bài giải chưa khoa học. Xác định chưa đúng dạng toán dẫn đến giải sai hoặc nhầm lẫn cách giải. Vận dụng còn nhầm lẫn công thức tính chu vi, diện tích các hình đã học.
Với các lí do đó, học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng, việc học toán và giải toán có nội dung hình học quan trọng và rất cần thiết. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng. 
 Bên cạnh những thành công giúp học sinh nắm được cách nhận diện hình, tìm diện tích, chu vi thì cũng còn những hạn chế, các em chưa nắm rõ bản chất của đơn vị kiến thức, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực hành. Làm thế nào để các em có thể sử dụng kiến thức cơ bản một cách linh hoạt ở từng trường hợp cụ thể. Đó cũng là trăn trở của bản thân tôi khi dạy cho học sinh kiến thức về nội dung hình học.
Chính vì vậy, năm học này tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 5B, trong quá trình giảng dạy tôi rút ra một vài kinh nghiệm trong việc giúp học sinh học các bài có nội dung hình học. Vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp giúp học sinh học tốt hơn về kiến thức hình tam giác, hình thang ở Lớp 5”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nhằm nâng cao chất lượng học sinh.
Giúp học sinh hình thành kỹ năng, sử dụng thành thạo và vận dụng một cách linh hoạt các công thức trong giải toán.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cách hình thành kiến thức mới và vận dụng vào từng bài cụ thể.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài
Xây dựng cơ sở thực tiễn cho đề tài
Tìm hiểu nội dung, phương pháp để hình thành, khắc sâu và vận dụng công thức
Thực nghiệm sư phạm
1.5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM	
Qua áp dụng vào dạy học tôi thấy đã có hiệu quả tôt. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy, tôi rút ra được một số kinh nghiệm mà giáo viên cần lưu ý khi dạy như sau:
+ Chỉ nên gợi mở cho học sinh tự tìm hướng giải bài tập mà không áp đặt, rập khuôn theo trình tự cụ thể. Chỉ khi thật cần thiết hoặc học sinh không thể tìm ra lời giải nào hợp lí giáo viên mới phải tác động vào mà thôi.
+ Không nên ra bài tập quá khó hoặc không phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Bài vừa sức, phù hợp với khả năng của từng em, nhất là học sinh chậm tiến sẽ kích thích được sự hứng thú học tập ở các em hơn.
+ Giáo viên cần phải nghiên cứu thêm nhiều tài liệu, làm phong phú thêm bài tập, giúp học sinh mở rộng thêm sự hiểu biết của mình.
+ Giáo viên cần khuyến khích, động viên và khen ngợi học sinh kịp thời, kịp lúc ngay cả khi các em chỉ làm đúng được một phần nhỏ trong hoạt động học tập.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1.1.Cơ sở toán học
a. Hình tam giác 
* Nhận diện hình tam giác.
- Tam giác ABC có :
+ Ba cạnh là: cạnh AB, cạnh AC, cạnh BC 
+ Ba đỉnh là: đỉnh A, đỉnh B, đỉnh C 
+ Ba góc là: góc A, góc B, góc C
 +Đáy BC, đường cao AH vuông góc với BC
A
H
C
B
+ Dạng 1.Tam giác có 3 góc nhọn: 
A
H
C
B
+ Dạng 2.Tam giác có một góc tù và hai góc nhọn: 	
Đáy BC, đường cao AH
Đáy AC, đường cao BH
Đáy AB, đường cao CH
C
H
B
A
C
H
B
A
C
H
B
+ Dạng 3.Tam giác có 1 góc vuông và hai góc nhọn (Tam giác vuông)
Do 2 cạnh góc vuông vuông góc với nhau nên chúng đều có thể làm đường cao
A
B
C
A
B
C
A
B
C
K
Đáy BC, đường cao AB
Đáy AB, đường cao BC
Đáy AC, đường cao BK
 Hai tam giác nếu có chung đường cao (đường cao bằng nhau) và đáy bằng nhau (chung đáy) thì chúng có diện tích bằng nhau.
*Công thức tính diện tích hình tam giác:
Trong đó: S: Diện tích
 a: Độ dài đáy
 h: Chiều cao
b. Hình thang
*Nhận diện hình thang.
- Có 2 cạnh đáy đối diện AB, CD song song với nhau
- Có 2 cạnh bên AD, BC.
- AH là đường cao.
A
B
H
C
D
- Nếu từ 1 điểm bất kỳ ở đáy bé ta hạ vuông góc xuống đáy lớn thì ta có đường cao của hình thang.
- Nếu cạnh bên AD vuông góc với 2 đáy AB và CD thì hình thang này là hình thang vuông, AD là đường cao.
C
A
D
B
* Công thức tính diện tích hình thang:
Trong đó:
 S : Diện tích
 a, b: Độ dài 2 đáy
 h : chiều cao
2.1.2.Phương pháp dạy và học môn Toán
Trong dạy học nói chung và dạy học toán ở tiểu học nói riêng, người giáo viên cần phải biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học trong một tiết dạy , không được xem nhẹ một phương pháp nào. Mỗi phương pháp đều có mặt mạnh và hạn chế riêng. Để tổ chức hoạt động dạy học có hiệu quả, giáo viên cần biết cách lựa chọn, sử dụng ưu thế của từng phương pháp dạy học phù hợp với mục tiêu, nội dung của từng bài học. 
Qua quá trình giảng dạy cũng như dự giờ thăm lớp. Tôi thấy, để giảng dạy tốt các yếu tố hình học thì nội dung thể hiện phải có sự hỗ trợ của các phương tiện trực quan như: hình vẽ, sơ đồ, đồ vật. Nhằm giúp học sinh tri giác các biểu tượng hoạt động trực tiếp với đồ dùng trực quan, làm cơ sở để dạy học chuyển từ trực quan sinh động sang tư duy trừu tượng của học sinh để phù hợp với nội dung bài học.
Chính vì thế, trong dạy học Toán có nội dung hình học thì phương pháp trực quan luôn được sử dụng. Ở 2 bài dạy, hình tam giác và hình thang thì giáo viên và học sinh đều thao tác trên đồ dùng. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ thêm phương pháp thực hành luyện tập, phương pháp vấn đáp gợi mở, phương pháp giảng giải minh hoạ để tiết dạy đạt hiệu quả cao.
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
2.2.1.Về sách giáo khoa
a. Hình tam giác: dạy 4 tiết từ tiết 85 đến tiết 88.
Tiết 85: Hình tam giác
Tiết 86: Diện tích hình tam giác
Tiết 87+88: Luyện tập thực hành
b. Hình thang: Dạy 4 tiết từ tiết 90 đến tiết 93
Tiết 90: Hình thang
Tiết 91: Diện tích hình thang
Tiết 92+93: Thực hành luyện tập
Ngoài 2 tiết 85 và 90 là giới thiệu về hình, các tiết còn lại chủ yếu học sinh vận dụng công thức để tính diện tích của một hình sau khi đã cho các số liệu cụ thể.
2.2.2.Về học sinh 
Bên cạnh đó, đặc điểm tâm lí lứa tuổi của các em chóng nhớ nhưng nhanh quên. Sau khi học bài mới, cho các em luyện tập ngay thì các em làm được bài nhưng chỉ sau một thời gian ngắn kiểm tra lại thì hầu như các em đã quên hoàn toàn, đặc biệt những tiết ôn tập, luyện tập cuối năm. 
Mặt khác, khi giải các bài tập mới, các em thường lao vào giải bằng cách tái hiện một cách máy móc, khi hỏi về lí lẽ các em không giải thíc được. Đa số còn lúng túng khi trình bày bài giải, diễn đạt lủng củng, nhiều chỗ lẫn lộn. Hình thức trình bày chưa khoa học, chưa đạt yêu cầu. Xác định chưa đúng dạng toán. Vận dụng còn nhầm lẫn công thức tính chu vi, diện tíc của các hình đã học.
Ví dụ: Sau khi các em học xong bài Diện tích hình tam giác, cho các em làm bài trong sách giáo khoa (làm đề kiểm tra luôn)
Đề kiểm tra
Bài 1: Tính diện tích hình tam giác có:
a, Độ dài đáy là 9cm, chiều cao là 7 cm
b, Độ dài đáy là 6.4 dm, chiều cao là 1,2 dm
c, Độ dài đáy là 10 m, chiều cao là 18 cm
Bài 2 : Hãy vẽ các đường cao tương ứng với các đáy được vẽ trong mỗi hình tam giác dưới đây :
A
B
C
A
B
C
A
B
C
Đáy AB
Đáy AB
Đáy AC
Biểu điểm chấm :
 Bài 1: 6 điểm (mỗi câu 2 điểm) 
	Bài 2: 4 điểm. Ở tam giác 1: 1 điểm
 	 Ở tam giác 2: 2 điểm
	 Ở tam giác 3: 1 điểm
Thống kê kết quả chấm bài của học sinh tại lớp như sau :
Nhận xét
Bài 1
Bài 2
 Câu a
Câu b
Câu c
Câu a
Câu b
Câu c
HTT
2
3
2
3
4
2
HT
25
25
26
24
22
27
CHT
3
2
2
3
4
1
Nhìn vào bảng thống kê ta thấy: Lớp tôi chủ nhiệm với sĩ số là 30 em thì đa số các em vận dụng công thức và lý thuyết đã học mà giáo viên hướng dẫn như sách giáo khoa nên đã làm được câu a, câu b của bài 1 và câu a bài 2. Còn câu c bài 1, câu b, câu c bài 2 các em ít đúng và còn nhiều em chưa tìm được các làm.
2.2.3.Về giáo viên
Quyết định chất lượng dạy học phụ thuộc nhiều vào giáo viên. Do cấu trúc các bài trong sách giáo khoa, ở những tiết học đầu mới chỉ là giới thiệu và hình thành công thức để học sinh nắm được và giải toán. Vì vậy, trong qúa trình lên lớp giáo viên cũng chỉ có thể giúp học sinh giải quyết những bài tập trong sách chứ chưa có sự đào sâu, mở rộng. Đối với đối tượng học sinh tiếp thu chậm thì lại càng khó khăn hơn trong việc vận dụng công thức để xác định những yếu tố trong công thức đó.
Ví dụ : Hình tam giác: Hình thành và vận dụng công thức để tính diện tích chứ chưa yêu cầu tính độ dài đáy hay đường cao.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.3.1 Phân tích nội dung, phương pháp dạy 2 loại hình
a. Hình tam giác
+ Bài giới thiệu về hình tam giác (Tiết 85)
Cho học sinh quan sát hình và chỉ ra 3 cạnh, 3 góc, 3 đỉnh sau đó giới thiệu cho học sinh 3 loại hình tam giác. Từ đây học sinh nhận diện hình để xác định đâu là tam giác: có 3 góc nhọn, tam giác có 1 góc tù và 2 góc nhọn, tam giác vuông có 1 góc vuông, 2 góc nhọn ( ở bài tập 1 trang 86.)
Cho học sinh nhận biết đáy, đường cao tương ứng bằng cách quan sát cùng với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh đọc tên được các đường cao ứng với đáy (ở bài tập 2 trang 86.)
+ Bài diện tích hình tam giác (tiết 86)
Dạy bài này bằng cách cắt ghép 2 tam giác bằng nhau. Giáo viên thao tác trên đồ dùng cho học sinh quan sát và cho học sinh làm theo, sau đó mới hình thành công thức và nhận xét :
Hình chữ nhật ABCD có chiều dài bằng độ dài đáy DC của tam giác EDC, có chiều rộng bằng chiều cao EH của tam giác EDC.
A
E
B
C
D
H
+Diện tích hình chữ nhật gấp 2 lần diện tích hình tam giác
+Diện tích hình chữ nhật ABCD là CD x AD = DC x EH
	Vậy diện tích tam giác EDC là 
	Từ đây mà phát biểu quy tắc và hình thành công thức : 
Trong đó S là diện tích, a là độ dài đáy, h là chiều cao.
 Các em sẽ vận dụng công thức để làm bài tập tính diện tích tam giác biết độ dài đáy a và chiều cao h ở tiết 86,87,88.
b. Hình thang A
B
H
C
D
+ Bài giới thiệu về hình thang (tiết 90)
Cho học sinh quan sát và chỉ ra hình thang ABCD có : 
Cạnh đáy AB, CD ; 2 cạnh bên AD, BC.
Hai cạnh đáy song song 
Giới thiệu đường cao AH và độ dài AH là chiều cao.
Học sinh vận dụng khái niệm: Hình thang có 1 cặp cạnh đối diện song song để nhận diện hình ở bài 1 (trang 91), vẽ hình thang ở bài 2 (trang 92) và nắm khái niệm hình thang vuông ở bài 3.
+ Bài diện tích hình thang (tiết 91)
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát và thao tác trên đồ dùng để thấy cắt ghép hình thang trở thành hình tam giác. Vì vậy diện tích hình thang ABCD bằng diện tích tam giác ADK.
Từ đó mà xây dựng công thức và phát biểu quy tắc :
Trong đó: S : là diện tích
	 a,b : là độ dài các cạnh đáy
	 h : là chiều cao 
Từ đây học sinh vận dụng công thức để tính diện tích hình thang khi biết độ dài hai đáy và chiều cao ở tiết 91+92+93.
2.3.2.Giải pháp
Hiện nay, chúng ta có thuận lợi là học sinh đã được học 2 buổi/ngày. Chương trình dạy buổi sáng nếu chưa hết có thể chuyển bớt sang buổi chiều. Vì vậy, giáo viên có đủ thời gian để cung cấp đến các em những đơn vị kiến thức mà giáo viên cho là cần thiết hoặc những đơn vị kiến thức mà các em nắm chưa vững.
a. Hình tam giác
Ở lớp 5, hình tam giác được dạy từ tiết 85 đến tiết 88. Trong đó có 1 tiết về nhận dạng và các đặc điểm của hình, các tiết còn lại dành cho việc hình thành và vận dụng công thức tính diện tích.
Tiết 85: Sách giáo khoa giới thiệu về hình tam giác với : 3 góc, 3 đỉnh, 3 cạnh ; cách xác định đường cao tương ứng với cạnh đáy và nhận diện các loại hình tam giác. Bài này giáo viên cần giúp học sinh :
Nhận biết hình và đặc điểm của hình.
Phân biệt 3 dạng hình.
Nhận biết đáy và xác định đường cao tương ứng.
 Tiến hành dạy bài này như đã trình bày ở phần trước: Từ phân tích nội dung, khi các em đã nắm được trọng tâm bài, giáo viên giúp học sinh xác định rõ đường cao xuất phát từ 1 đỉnh luôn vuông góc với đáy tương ứng.
Khi giúp học sinh phân biệt 3 dạng hình, giáo viên cần tiến hành thêm 1 số công việc như sau:
*Với tam giác có 3 góc nhọn
Khi học sinh đã quan sát trong sách giáo khoa về đặc điểm của loại hình này, cô giáo có thể gợi mở bằng 1 số câu hỏi sau:
- Ba góc của tam giác lớn hơn hay nhỏ hơn góc vuông?
- AH là đường cao tương ứng với đáy BC như hình vẽ trên bảng. Nếu lấy đáy là AC ta sẽ có đường cao nào? Tương tự nếu lấy đáy là AB thì đường cao sẽ hạ từ đâu?
Học sinh sẽ suy nghĩ để tìm cách vẽ trong vở hoặc trên bảng lớp với các loại hình đều có đáy : BC, AC, AB như hình vẽ dưới đây
A
H
C
B
Tiếp theo, giáo viên đưa ra 1 số hình tam giác với các vị trí đáy khác nhau, yêu cầu học sinh vận dụng những điều vừa học xác định đường cao lần lượt với các đáy AB, AC, BC.
Sau khi đã vẽ xong, giáo viên cùng học sinh thống nhất các đường cao tương ứng với các đáy như các hình dưới đây:
A
H
C
B
A
H
C
B
A
H
C
B
Cuối cùng giáo viên hỏi: Ba đường cao của tam giác có 3 góc nhọn nằm trong hay ngoài tam giác?
* Tam giác có 1 góc tù và 2 góc nhọn: Với đối tượng học sinh tiếp thu chậm thì việc xác định đường cao trong loại tam giác này thực sự khó khăn, các em sẽ không kẻ được nếu không có sự giúp đỡ của giáo viên. Sách giáo khoa đã giới thiệu đường cao AH tương ứng với đáy BC nhưng giáo viên cần lưu ý học sinh để kẻ được đường cao trước hết ta phải kéo dài đáy sang hai bên, sau đó kẻ đường cao AH từ đỉnh A vuông góc xuống BC.
A
C
H
B
Tương tự phần trên, giáo viên cũng đưa ra các tam giác với các vị trí đáy khác nhau và yêu cầu học sinh thực hành kẻ đường cao tương ứng với các đáy. Nhưng giáo viên vẫn phải lưu ý học sinh thực hiện theo 2 bước:
- Kéo dài đáy sang 2 bên.
- Kẻ đường cao từ đỉnh vuông góc xuống đáy.
Sau khi các em thực hiện xong, đáp án đúng sẽ là:
A
C
H
B
A
C
H
B
A
C
H
B
Đáy BC, đường cao AH
Đáy AB, đường cao CH
Đáy AC, đường cao BH
Sau đó giáo viên hỏi: Em có nhận xét gì về 3 đường cao trong tam giác có 1 góc tù, 2 góc nhọn? (Có 2 đường cao ngoài và 1 đường cao trong tam giác).
Vẽ đường cao ngoài của tam giác rất khó với học sinh. Tuy nhiên ta vẫn phải cho các em làm quen để học sinh nắm được bản chất. Từ đó các em có điều kiện học tốt hơn ở các bài học khác. 
Ví dụ: Ở bài học 2, tiết 93 phần ôn tập - luyện tập: Để tính được diện tích hình tam giác BEC học sinh buộc phải dùng đường cao ngoài tam giác từ đỉnh B xuống đáy EC, đó chính là đường cao hình thang ABCD (trang 95). Ta thấy rằng, đây chính là tiền đề, là cơ sở cho các em học tốt hơn môn hình học ở lớp trên.
 Tôi đặc biệt quan tâm để hướng dẫn các em hiểu và vẽ được 3 đường cao ứng với 3 cạnh đáy. Đa số các em chỉ biết cạnh đáy là cạnh nằm phía dưới chứ không hiểu được là bất cứ cạnh nào ta cũng có thể làm cạnh đáy ứng với một đường cao khác, còn đường cao các em cũng chỉ biết với đường cao nằm trong hình tam giác ứng với cạnh đáy nằm phía dưới chứ cũng không biết đường cao khác nhất là đối với các đường cao nằm ngoài hình tam giác.	
Thậm chí có em không biết đường cao hay cạnh đáy là gì, chỉ thấy trong đề bài nói là đường cao, cạnh đáy thì lấy ra mà tính Vì thực tế, 1 tiết dạy bài “Hình tam giác” (SGK_trang 85&86) với nội dung như thế trong một tiết thì không thể nào đáp ứng được yêu cầu mong muốn chỉ giới thiệu và lướt qua với mỗi trường hợp để các em nhận biết có đường cao nằm ngoài hình tam giác (trang 86).
Những vấn đề nêu trên tôi dành khá nhiều thời gian để hướng dẫn các em thực hành vẽ đường cao nhiều dạng hình tam giác. Như ta đã biết với tam giác có 3 góc nhọn thì có 3 đường cao nằm trong hình tam giác; tam giác vuông thì 2 cạnh góc vuông chính là 2 đường cao, đường cao còn lại thì kẻ từ đỉnh góc vuông xuống cạnh dài nhất (cạnh huyền); tam giác có 1 góc tù thì có đường cao nằm ngoài hình tam giác kẻ từ 2 đỉnh là 2 góc nhọn, còn lại đường cao thứ 3 thì kẻ từ góc tù xuống cạnh đáy dài nhất. Qua công việc này các em sử dụng Eke một cách thành thạo hơn. 
*Tam giác có 1 góc vuông và 2 góc nhọn:
Trong sách giáo khoa chỉ giới thiệu AB là đường cao ứng với đáy BC. Còn ở bài tập 2 chỉ yêu cầu học sinh xác định đường cao trong tam giác, giáo viên cho học sinh quan sát và khẳng định thêm:
- Nếu xem BC là đáy thì AB là đường cao.
- Nếu xem AB là đáy thì BC là đường cao.
	Sau khi học sinh nhận biết được đáy, chiều cao của loại tam giác này, giáo viên lại cho học sinh xác định với các tam giác có vị trí đáy khác nhau. Đáp án cuối cùng là:
A
B
C
Đáy BC, đường cao AB
A
B
C
Đáy AB, đường cao BC
A
B
K
Đáy AC, đường cao BKBBK
C
Nhận xét về các đường trong tam giác vuông: 2 cạnh vuông góc với nhau chính là 2 đường cao tương ứng với đáy và 1 đường cao nữa nằm trong tam giác
Kết luận: Trong 1 tam giác ta có thể kẻ 3 đường cao tương ứng với 3 đáy của nó. Tuỳ vào hình dạng, đặc điểm của tam giác và đáy của nó mà đường cao tam giác có thể nằm trong hay nằm ngoài hay chính là cạnh của tam giác.
Tiết 86: Diện tích tam giác
Sách giáo khoa đã hình thành quy tắc, công thức tính rõ ràng:
Trong đó: S: Diện tích
 a: Độ dài đáy
 h: Chiều cao
Sau khi có công thức, học sinh lắp số liệu các em sẽ làm được bài tập 1, 2 (tiết 86) bài 1, 2, 3, 4 (tiết 87) và bài 3 (tiết 88).
Tiếp theo, giáo viên phải làm rõ cho học sinh 2 nội dung:
+ Cũng như việc tính diện tích hình chữ nhật, hình thoi, hình bình hành, để tính được diện tích tam giác thì các số đo: chiều cao, độ dài đáy phải cùng 1 đơn vị đo, nếu vậy các em sẽ làm đúng bài 2a (tiết 86) và bài 1b (tiết 87)
+ Cho học sinh nhận xét thêm về công thức
Ta xem: (a x h) là số bị chia
 2 là số chia
 S là số chia
Thì a x h = 2 x S
	a x h là thừa số
	2 x S là tích.
Nếu a là thành phần chưa biết thì a = 2 x S : h.	(1)
Nếu h là thành phần chưa biết thì h = 2 x S :a	(2)
Đến đây học sinh có thể dùng 2 công thức (1) và (2) để làm bài tập dạng:
a) Tam giác có diện tích là 39.44 cm2, chiều cao là 5.8 cm. Tính độ dài cạnh đáy?
b) Tam giác có diện tích là m2, độ dài đáy là m. Tính chiều cao?
Và học sinh thực hành tốt bài tập 1 tiết 103 (trang 106): Tam giác có diện tích 5/8 m2, chiều cao 1/2 m. Tính độ dài