SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn khoa học Lớp 5
Bạn đang xem
20 trang mẫu
của tài liệu “SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn khoa học Lớp 5”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u có những phương pháp dạy học đặc thù, những phương pháp này sẽ phát huy tối đa tính tích cực tự giác của học sinh. Nhiệm vụ của giáo viên là cần biết lựa chọn các phương pháp phù hợp với từng nội dung bài học, với từng đối tượng học sinh để khơi gợi, phát huy khả năng của từng học sinh. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu. Như chúng ta đã biết môn khoa học ở tiểu học là môn học đóng vai trò quan trọng trong việc giúp học sinh học tập môn Khoa học tự nhiên ở cấp trung học cơ sở và các môn Vật lí, Hóa học, Sinh học ở cấp trung học phổ thông. Môn học chú trọng khơi dậy trí tò mò khoa học, bước đầu tạo cho học sinh cơ hội tìm hiểu, khám phá thế giới tự nhiên, tri thức khoa học....Tuy nhiên thực trạng hiện nay trong quá trình giảng dạy môn học này chưa thật sự được chú trọng. Về phía giáo viên: Trong một lớp học trình độ học sinh không đồng đều dẫn đến việc giảng dạy môn Toán và các phân môn của môn Tiếng Việt nhiều học sinh chưa thể nắm bắt kịp kiến thức nên giáo viên thường kéo dài thời gian của những tiết học này dẫn đến việc giảng dạy các môn như còn lại thường bị rút ngắn chưa đảm bảo đúng thời gian quy định. Vì thời gian bị rút ngắn nên việc giảng dạy đúng đúng quy trình chưa đảm bảo, giáo viên cũng chưa thật sự đầu tư nhiều thời gian vào việc nghiên cứu đổi mới các phương pháp cũng như làm đồ dùng học tập giảng dạy trong môn Khoa học nhằm kích thích trí tò mò khám phá của học sinh. Về phía phụ huynh và học sinh: Cả phụ huynh và học sinh vẫn có tư tưởng xem môn học này là môn học “ phụ ”, hoặc chỉ cần học thuộc lòng bài học, nội dung cần ghi nhớ trong mỗi bài là học sinh có thể làm bài thi học kì. Đối nhiều phụ huynh vẫn có suy nghĩ môn Khoa học chỉ là môn học nhận xét bằng định tính như môn Tự nhiên Xã hội ở các lớp 1, 2, 3. 6 Đối với học sinh Tiểu học cũng chưa có sân chơi nào trong lĩnh vực khoa học nên cũng chưa thu hút được sự quan tâm của học sinh và phụ huynh. Từ những thực trạng trên, qua nhiều năm giảng dạy ở khối lớp 5, bản thân tôi nhận thấy cần phải nâng cao chất lượng giảng dạy môn Khoa học trong trường Tiểu học. Đặc biệt là phải khơi gợi được trí tò mò khám phá tự nhiên, khám phá khoa học của học sinh. Giúp học sinh khám và và khắc sâu được kiến thức, vận dụng những kiến thức đã học nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống hàng ngày, có ý thức giũ gìn sức khỏe, môi trường xung quanh. Sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lí, có ý thức bảo vệ môi trường sống....... Trong quá trình giảng dạy, đúc rút kinh nghiệm của bản thân sau mỗi năm học và học hỏi từ bạn bè đồng nghiệp, từ các phương tiện thông tin đại chúng, từ các nguồn tài liệu khác nhau...bản thân mạnh dạn đổi mới và vận dụng nhiều phương pháp khác nhau nhằm thu hút sự tập trung chú ý của học sinh, khơi gợi trí tò mò và đam mê khám phá kiến thức để học sinh tự rút ra được kiến thức sau mỗi bài học. Có như vậy học sinh mới là chủ thể của hoạt động, chủ thể của kiến thức. Năm học 2019 – 2020 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5A với tổng số học sinh lớp là 32 trong đó có 17 học sinh nữ, 15 học sinh nam, 3 học sinh thuộc hộ nghèo. Đa số học sinh ngoan, biết vâng lời và lễ phép với thầy cô giáo. Các em được phụ huynh chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập khi đến lớp. Nhưng một thực tế khiến tôi trăn trở là hầu như cả phụ huynh và học sinh đang tập trung nhiều thời gian vào các môn Toán, Tiếng Việt và Anh văn. Việc học và chuẩn bị bài ở nhà những môn học này khá tốt. Trong giờ học các môn này học sinh cũng tích cực xây dựng bài, tương tác giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với học sinh rất tốt. Nhưng với các môn học còn lại trong đó có môn khoa học học sinh lớp tôi chưa thật sự tích cực, việc tìm hiểu kiến thức chuẩn bị bài ở nhà chưa 7 đảm bảo. Các em thường máy móc rập khuôn đọc nội dung ghi nhớ chứ chưa trình bày diễn đạt được những kiến thức bằng vốn từ, vốn hiểu biết của mình. Từ thực trạng đó tôi nhận thấy mình cần phải thay đổi phương pháp, vận dụng các hình thức hoạt động linh hoạt để học sinh hứng thú hơn trong môn học này. Giúp các em thu nhận được kiến thức một cách tự nhiên và hiểu được bản chất của vấn đề, có thể trình bày bằng vốn hiểu biết của mình chứ không rập khuôn máy móc. Trước khi tiến hành vận dụng các biện pháp tôi đã quan sát tìm hiểu về mức độ hứng thú học tập của học sinh với môn khoa học thông qua bảng khảo sát sau: Nội dung khảo sát ( Biểu hiện của học sinh) Thường xuyên Thỉnh thoảng Hiếm khi Học sinh vui vẻ hứng thú trong các tiết khoa học Học sinh nắm được bài học và trình bày được những hiểu biết của mình. Kĩ năng tương tác,phối hợp tốt giữa học sinh với học sinh và giữa học sinh với giáo viên. HS tự giác hoàn thành bài trước khi đến lớp. HS biết tìm kiếm thông tin để hoàn thành nhiệm vụ học tập. 8 Dựa vào những phiếu khảo sát tôi thu nhận được kết quả như sau: BẢNG KẾT QUẢ KHẢO SÁT Thời gian khảo sát Tổng số Học sinh hứng thú trong học tập trong môn Khoa học Học sinh ít hứng thú trong học tập trong môn Khoa học Đầu năm 32 Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 10 31,25 22 68,75 3. Nội dung và hình thức của giải pháp. a) Mục tiêu của giải pháp. Dựa vào đặc điểm, tâm sinh lí của học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 5 các em đang ở giai đoạn chuyển giao từ lứa tuổi nhi đồng lên lứa tuổi thiếu niên. Ở lứa tuổi này các con bước vào giai đoạn đầu của tuổi dậy thì, các con có những nhận thức mới về bản thân, gia đình, bạn bè và môi trường xung quanh. Các con bắt đầu nhận thức được cái tôi từ lứa tuổi này, các con dễ bị lôi cuốn bởi ấn tượng bên ngoài, dễ bị hấp dẫn bởi cái mới, cái lạ. Dựa trên những đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học và đặc thù của môn học giáo viên lựa chọn những phương pháp, những hoạt động mà trong đó học sinh có cơ hội để trình bày hiểu biết ( theo diễn đạt của riêng mình) để giải quyết nhiệm vụ của bài học. Từ đó giải thích được sự vật, hiện tượng tự nhiên xung quanh. Tạo cơ hội cho học sinh liên hệ, vận dụng kiến thức, kỹ năng từ các lĩnh vực khác nhau trong các môn học khác vào để giải quyết vấn đề. Chú trọng tạo cơ hội cho học sinh học qua trải nghiệm, học qua tìm tòi khám phá thế giới xung quanh, qua quan sát thí nghiệm, thực hành, qua hợp tác, trao đổi với bạn. b) Nội dung và cách thực hiện biện pháp 9 Biện pháp 1: Tạo sự hứng thú cho học sinh bằng những trò chơi học tập. Không có một phương pháp giảng dạy nào là vạn năng, mỗi phương pháp đều có những mặt mạnh và mặt hạn chế. Sự khéo léo của mỗi giáo viên là biết khác thác tối đa những ưu điểm của các phương pháp đó và mạnh dạn ứng dụng những phương pháp mới, mạnh dạn đổi mới và sáng tạo đáp ứng, thích ứng với nhu cầu của từng đối tượng học sinh nhằm tạo nên những đổi mới, những tiến bộ vượt bậc trong giáo dục. Tuy nhiên cũng có những phương pháp thể rõ ưu thế của mình trong quá trình giảng dạy. Trong những phương pháp đó có phương pháp trò chơi học tập. Trò chơi học tập phù với học sinh tiểu học vì có tác dụng giúp học sinh khám phá được kiến thức vừa đáp ứng nhu cầu vui chơi của trẻ. Trò chơi học tập vừa giúp trẻ giải tỏa được những “căng thẳng” trong quá trình học tập vừa giúp trẻ được vận động để phục hồi sức khỏe. Trong quá trình giảng dạy tôi đã mạnh dạn đầu tư thời gian thiết kế các trò chơi học tập trong môn Toán và phân môn Luyện từ và câu nó đã đem lại những hiệu quả nhất định. Vì vậy tôi tiếp tục mạnh dạn thiết kế những trò chơi học tập trong môn Khoa học nhằm giúp học sinh hứng thú, khắc sâu kiến thức hơn trong mỗi tiết học. Thông qua trò chơi học tập học học sinh hình thành khám phá được tri thức và còn tạo cơ hội hội cho giao lưu, hợp tác với bạn trong tổ, nhóm. Khi lựa chọn thiết kế các trò chơi học tập giáo viên cần lưu ý tên trò chơi phải gây sự chú ý tò mò đối với học sinh. Luật chơi đơn giản, dễ thực hiện đảm bảo tất cả học sinh đều có thể tham gia. Giáo viên cần khéo tổ chức để học sinh cả lớp cùng được tham gia, các em không được chơi trực tiếp thì sẽ là những cổ động viên, là ban giám khảo.... Các học sinh dưới lớp ngoài việc cổ vũ tinh thần mà còn phải suy nghĩ để tìm đáp án những vấn đề mà các bạn trong đội đang thực hiện. 10 Kết thúc mỗi trò chơi giáo viên cần có những nhận xét, đánh giá một cách toàn diện và kịp thời. Giáo viên cần đánh giá về cả kết quả lẫn tinh thần, ý thức, sự phối hợp của các thành viên trong nhóm. Trò chơi học tập phải mang ý nghĩa giáo dục đạo đức và ý thức công dân cho học sinh. Giáo dục ý thức đoàn kết hỗ trợ lẫn nhau tránh tư tưởng ích kỉ, hẹp hòi. Trò chơi học tập trong các giờ học được thiết kế theo cấu trúc sau: Mục đích: Để tổ chức bất kì trò chơi nào giáo viên cũng phải xác định rõ mực tiêu trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức, kỹ năng nào. Giúp học sinh hình thành phát triển được năng lực gì. Đồ dùng để chơi: Chuẩn bị các dụng cụ cần thiết phục vụ cho quá trình tổ chức trò chơi. Số người tham gia chơi: Xác định rõ số người tham gia chơi. Nêu luật chơi và cách chơi: Nêu rõ các bước thực hiện, các qui định cụ thể đối với người chơi, qui định thắng thua của trò chơi. Nêu cách chơi để người chơi nắm được và thực hiện tốt. Tùy vào từng bài học cụ thể, từng đối tượng học sinh giáo viên có sự sáng tạo trong quá trình vận dụng các trò chơi. Tùy vào nội dung, thời gian của bài học mà giáo viên qui định thời gian chơi. Nhưng thông thường trò chơi học tập được tiến hành theo các bước sau: + Bước 1: Giới thiệu trò chơi Giáo viên nêu tên của trò chơi học tập. Hướng dẫn học sinh tham gia chơi, giáo viên có thể vừa diễn tả vừa mô phỏng hình thức chơi để học sinh nắm rõ. + Bước 2: Chơi thử Thông qua chơi thử để nhấn mạnh luật chơi. 11 + Bước 3: Chơi thật + Bước 4: Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu thêm những tri thức thu nhận được thông qua trò chơi, những sai lầm cần tránh. + Bước 5: Giáo viên cùng học sinh đánh giá kêt quả công bằng và khách quan có như vậy học sinh mới cảm thấy thoải mái và tự giác từ đó sẽ kích thích ý thức học tập tự giác của học sinh. Hình thức phạt đơn giản, nhẹ nhàng giáo viên có thể sử dụng những hình thức hóm hỉnh tạo sự sôi nổi, tiếng cười sảng khoáng cho cả đội thắng và đội thua. Một số trò chơi học tập trong môn Khoa học lớp 5. Trò chơi: “Rung chuông vàng” * Mục tiêu: Củng cố lại những kiến thức học sinh đã học ở những bài trước nhằm tạo tâm lí hưng phấn trước khi vào bài học. Hoặc tổ chức cuối các bài học để củng cố kiến thức cho học sinh. Rèn cho học sinh sự nhanh nhẹn và tập trung chú ý. * Chuẩn bị: Ứng dụng CNTT soạn trên Powe Point. Học sinh chuẩn bị bảng con, bút viết bảng. * Thời gian: Khoảng từ 2 đến 3 phút. * Luật chơi – Cách chơi: Học sinh cả lớp cùng chơi lần lượt nghe, quan sát câu hỏi trên màn hình và ghi đáp án đúng vào bảng con. Những học sinh trả lời chưa chính xác thì không được tham gia ở những câu tiếp theo. Hết thời gian những học sinh còn lại là người thắng cuộc. Ví dụ: Sau khi dạy bài Nhôm giáo viên soạn một số cấu hỏi trắc nghiệm giúp học sinh củng cố lại kiến thức của bài học như sau: Câu 1: Nhôm có nguồn gốc từ đâu? a) Từ quặng nhôm. b) Trong các thiên thạch. 12 c) Từ dầu mỏ và than đá. d) Trong các núi đá vôi. Câu 2: Nhôm và hợp kim của nhôm khôn được dùng để làm gì? a) Trong sản xuất các dụng cụ làm bếp. b) Làm khung cửa sổ và một số bộ phận của các phương tiện giao thông. c) Làm đường ray. d) Làm vỏ nhiều loại hộp. Câu 3: Đặc điểm của nhôm là: a)Màu trắng bạc, có ánh kim, có thể kéo thành sợi và dát mỏng, không bị gỉ. Dẫn điện, dẫn nhiệt tốt. b)Màu trắng xám, có ánh kim, có tính dẻo, dễ uốn, dễ kéo thành sợi, dễ rèn, dễ dập. c)Màu nâu đỏ, có ánh kim, bền dễ dát mỏng, dễ kéo thành sợi, dẫn điện, dẫn nhiệt tốt. Trò chơi: “Tiếp sức đồng đội” * Mục tiêu: Giúp học sinh củng cố kiến thức đã học, trình bày hiểu biết của học sinh về vấn đề đưa ra. Giúp học sinh phát huy sự tự tin và tính chủ động. Rèn sự nhanh nhẹn, phối hợp nhịp nhàng giữa các thành viên trong đội. * Chuẩn bị: tùy vào bài giáo viên chuẩn bị thẻ từ hoặc chỉ cẩn bảng đã chia sẵn cho các đội và phấn viết. * Thời gian: Căn cứ vào nội dung bài học và đối tượng học sinh giáo viên quy định thời gian hợp lí. * Luật chơi – Cách chơi: Chơi theo đội, mỗi đội có thể từ 3 đến 5 học sinh, học sinh của hai đội xếp thành hai hàng dọc. Khi nghe hiệu lệnh bắt đầu học sinh đầu tiên sẽ tìm và gắn (hoặc ghi) vào bảng của đội mình một nội dung đúng theo yêu cầu thuộc chủ 13 điểm sau khi tìm và gắn ( hoặc ghi) xong sẽ trao phấn cho bạn thứ hai để bạn thứ hai tiếp tục. Các đội thực hiện đến khi nào hết nội dung hoặc hết giờ. Giáo viên cùng học sinh dưới lớp kiểm tra nhận xét đáp án đội nào có nhiều nội dung đúng và nhanh là đội thắng cuộc. Ví dụ khi dạy bài: Nam hay nữ giáo viên có thể sử dụng trò chơi này. Mục tiêu: thông qua trò chơi này học sinh phân biệt các đặc điểm về mặt sinh học và xã hội giữa nam và nữ. Chuẩn bị: Bảng lớp chia làm hai và kẻ sẵn như sau: Nam Cả nam và nữ Nữ Thẻ từ có sẵn nội dung như sách giáo khoa (trang 8) ví dụ: Thời gian: Đối với nội dung bài có sẵn như trên thì đội nào gắn xong trước và có nhiều đáp án đúng hơn là đội thắng cuộc. Để khắc sâu thêm kiến thức và tạo cơ hội cho học sinh trình bày giáo viên có thể đặt thêm những câu hỏi để học sinh có cơ hội trình bày những hiểu biết của mình về vấn đề mà các em thực hiện. Ví dụ: Vì sao em cho rằng nhiệm vụ chăm sóc con cái là trách nhiệm của cả nam và nữ? Hoặc trong bài Nhôm giáo viên cũng có thể sử dụng trò chơi này. Mục tiêu: Học sinh kể tên được một số dụng cụ, đồ dùng, máy móc được làm bằng nhôm. Dịu dàng Có râu Mạnh mẽ Kiên nhẫn Tự tin Giám đốc 14 Chuẩn bị: Bảng lớp cho ba đội chơi, phấn. Thời gian: Đối với nội dung bài này giáo viên quy định trong thời gian 2 phút đội nào viết được nhiều đồ dùng và đúng là đội thắng cuộc. Trò chơi này rất đơn giản không cần phải chuẩn bị cầu kì nhưng giáo viên có thể vận dụng ở rất nhiều bài và học sinh được vận động tạo tâm lí hưng phấn, không khí lớp sôi nổi. Nội dung trò chơi đơn giản phù hợp với tất cả các đối tượng học sinh đặc biệt là những học sinh còn hạn chế về học, khi các em được tham gia và hoàn thành nhiệm vụ sẽ tạo cho các em tự tin hơn. Ví dụ một số bài có thể tổ chức trò chơi này: Bài số Tiết PPCT Tên bài Trang Bài 22 22 Tre, mây, song 46 Bài 24 24 Đồng và hợp kim của đồng 50 Bài 29 29 Thủy tinh 60 Bài 30 30 Cao su 62 Bài 35 35 Sự chuyển thể của chất 72 Trò chơi “Thêm lá cho cây” * Mục tiêu : Trò chơi giúp học sinh củng cố kiến thức của bài học. Nêu được những biện pháp phòng tránh xâm hại, những biện pháp vệ sinh tuổi dậy thì, phòng bệnh viêm gan A.... * Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị một bảng phụ vẽ sẵn mô hình cây và một số chiếc lá được cắt từ giấy. * Thời gian: từ 2 đến 3 phút 15 * Luật chơi- Cách chơi: Chơi theo nhóm, mỗi nhóm nhận một bảng phụ và số lá bằng nhau. Sau hiệu lệnh của giáo viên các thành viên trong nhóm viết các biện pháp phù hợp với nội dung bài học theo yêu cầu của giáo viên và chuyển cho bạn thư kí để gắn lá vào cây. Hết thời gian các nhóm đọc các biện pháp từ những chiếc lá của nhóm mình. Nhóm nào có nhiều biện pháp đúng chủ đề, đúng ngữ pháp nhiều hơn là nhóm thắng cuộc. Trò chơi này có ưu điểm rất lớn là có thể thu hút tất cả học sinh trong lớp cùng chơi. Tạo điều kiện cho tất cả các em đưa ra được những biện pháp mà các em đã từng vận dụng trong cuộc sống hàng ngày vào để giải quyết nhiệm vụ học tâp nhưng sự chuẩn bị lại rất đơn giản. Để bớt thời gian chuẩn bị của giáo viên giáo viên có thể yêu cầu mỗi học sinh tự chuẩn bị lá, hoặc có thể thay lá bằng những hình đơn giản hơn. Ví dụ: Khi dạy Bài phòng bệnh sốt xuất huyết giáo viên vận dụng trò chơi này. Mục tiêu: Giúp học sinh nêu được những biện pháp phòng tránh sốt xuất huyết mà bản thân và gia đình em vận dụng thường ngày, hoặc những biện pháp mà học sinh biết được qua tìm hiểu thông tin. Chuẩn bị: Một bảng phụ có vẽ thân cây, một số lá phát cho các nhóm. Thời gian: Đối với nội dung bài này giáo viên quy định trong thời gian 2 phút đội nào đưa ra được nhiều biện pháp và đúng là đội thắng cuộc. Một số bài giáo viên có thể áp dụng trò chơi này: Bài số Tiết PPCT Tên bài Trang Bài 8 8 Vệ sinh tuổi dậy thì 18 Bài 12 12 Phòng bệnh sốt rét 26 16 Bài 13 13 Phòng bệnh sốt xuất huyết 28 Bài 14 14 Phòng bệnh viêm não 30 Bài 15 15 Phòng bệnh viêm gan A 32 Bài 16 16 Phòng tránh HIV/AIDS 34 Bài 18 18 Phòng tránh bị xâm hại 38 Bài 19 19 Phòng tránh tai nạn giao thông đường bộ 40 Trò chơi “Ghép chữ vào hình” * Mục tiêu: Củng cố cho học sinh kiến thức trong bài “Sự sinh sản của thực vật có hoa” về sự thụ phấn, thụ tinh của thực vật có hoa. Rèn cho các em thao tác nhanh nhẹn, phối hợp nhịp nhàng giữa các thành viên trong đội. 17 * Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị sơ đồ thụ phấn của hoa lưỡng tính và các thẻ từ có ghi sẵn chú thích. * Luật chơi- Cách chơi: Các nhóm nhận thẻ từ có ghi sẵn chú thích và sơ đồ thụ phấn của hoa lưỡng tính. HS thi đua gắn các chú thích vào hình cho phù hợp. Nhóm nào hoàn thành trước là nhóm thắng cuộc. Biện pháp 2: Sử dụng sơ đồ tư duy để giúp học sinh hình thành, củng cố kiến thức. Bản đồ tư duy hay còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy .... là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề....bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết. Ưu điểm của bản đồ tư duy là giúp học sinh hứng thú trong học tập và kích thích khả năng sáng tạo của học sinh, phát huy tối đa khả năng ghi nhớ của bộ não. Rèn luyện cho học sinh cách xác định từ khóa và phát triển ý chính, ý phụ Hạt phấn Đầu nhụy Bao phấn Noãn Bầu nhụy Vòi nhụy Ống phấn 18 một cách logich. Việc kết hợp giữa vẽ, viết, đọc sẽ học sinh ghi nhớ nhanh hơn và bền hơn. Ngoài ra sơ đồ tư duy còn giúp học sinh nhìn thấy được bức tranh tổng thể và giúp học sinh phát triển nhận thức tư duy. Trong quá trình giảng dạy tôi thường dẫn dắt giới thiệu cho học sinh một số sơ đồ tư duy đơn giản để các em làm quen, hình thành cho các em biểu tượng về sơ đồ tư duy. Hướng dẫn học sinh “đọc hiểu” sơ đồ tư duy để giúp các em khi nhìn vào bất cứ một sơ đồ tư duy cũng có thể thuyết trình nội dung của bài học hay một nội dung nào đó được trình bày trong sơ đồ. Thông thường trong các tiết khoa học tôi tổ chức cho các em vẽ sơ đồ tư duy trên giấy. Có thể theo hình thức nhóm hoặc cá nhân tùy vào nội dung bài học. Để học sinh vẽ được sơ đồ tư duy giáo viên cần hướng dẫn các em chọn từ khóa, chủ đề, hướng dẫn các em nghĩ trước khi viết và viết một cách ngắn gọn thường là viết cụm từ không viết thành câu. Khi viết nên chừa chỗ trống để có thể bổ sung ý. Trong khi thể hiện các nhánh của sơ đồ tư duy các em biết sử dụng màu sắc để thể hiện các nhánh cho chính xác. Việc chuẩn bị đồ dùng để học sinh thiết kế sơ đồ tư duy rất đơn giản, học sinh chỉ cần giấy hoặc bìa bút màu, tẩy là có thực hiện được một bài học, một chủ đề. Ví dụ khi dạy bài Đồng và hợp kim của đồng sau khi khai thác nội dung bài học tôi đã tổ chức cho học sinh học tập thảo luận theo nhóm và sử dụng sơ đồ tư duy để trình bày những hiểu biết của mình. Sau khi hoàn thiện được sơ đồ tư duy trong nhóm các em có nhiệm vụ nhìn vào sơ đồ tư duy để thuyết trình nội dung bài học. Việc làm này giúp học sinh thêm một lần nữa khắc sâu kiến thức. Ngoài ra cũng góp phần rèn cho học sinh kĩ năng giao tiếp, kĩ năng trình bày trước đám đông. Sau một bài học, một chủ đề... giáo viên khơi gợi, hướng dẫn để học sinh có thể sử dụng sơ đồ tư duy hệ thống kiến thức bài học, chủ đề một cách cô 19 động, ngắn gọn nhưng đầy đủ. Sơ đồ tư duy cũng như một phương tiện giúp học