SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 học tốt phần giải toán có lời văn

Bạn đang xem

20 trang mẫu

của tài liệu “SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 học tốt phần giải toán có lời văn”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

 MôC LôC
 NỘI DUNG
Trang
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
1
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
2
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 
2
PHẦN II: NỘI DUNG
2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
3
1. Về học sinh 
3
2. Về giáo viên
3
3. Khảo sát
4
III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
4
1. Nắm chắc nội dung chương trình Giải toán có lời văn lớp 1.
4
2. Hướng dẫn học sinh các bước giải bài toán có lời văn lớp 1.
11
3. Hướng dẫn học sinh thường xuyên luyện tập thực hành.
17
4. Đổi mới cách đánh giá học sinh theo Thông tư 30 và Thông tư 22 của BGD&ĐT
18
5. Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh.
18
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
19
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
20
I. KẾT LUẬN.
20
II. KIẾN NGHỊ.
20
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Môn Toán là một môn học vô cùng quan trọng trong chương trình Tiểu học. Môn Toán có hệ thống kiến thức cơ bản cung cấp những kiến thức cần thiết, ứng dụng vào đời sống sinh hoạt và lao động. Những kiến thức kĩ năng Toán học là công cụ cần thiết để học các môn học khác cũng như ứng dụng trong thực tế đời sống. Toán học có khả năng to lớn trong giáo dục học sinh nhiều mặt như: phát triển tư duy lôgic, bồi dưỡng những năng lực trí tuệ (trừu tượng hoá, khái quát hoá, phân tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh,...) Nó giúp học sinh biết tư duy suy nghĩ, làm việc có kế hoạch, góp phần giáo dục những phẩm chất, đạo đức tốt đẹp của người lao động, tạo tiền đề cho học sinh học tốt các môn học còn lại.
 Đặc biệt là đối với môn Toán lớp Một, môn học có vị trí nền tảng, là cái gốc, là điểm xuất phát của cả quá trình học của các em sau này. Thông qua lớp Một các em được học rất nhiều mạch kiến thức như: số và phép tính, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, giải toán có lời văn giải. Đối với mạch kiến thức : “Giải toán có lời văn” là một trong những mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp Tiểu học. Thông qua mạch kiến thức này, các em được phát triển trí tuệ, được rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ được giải các loại toán về số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đo đại lượng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học khác.
 Sau nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp Một tôi rất băn khoăn trăn trở là làm thế nào để học sinh lớp Một học giải toán có lời văn đạt kết quả cao. Vì tôi biết giải toán có lời văn có một vị trí quan trọng, một phần lớn thời gian học toán của học sinh dành cho việc học giải các bài toán. Biết giải thành thạo các bài toán là tiêu chuẩn để đánh giá mức độ tiếp thu của phân môn toán ở từng học sinh. Việc giải toán còn giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả các kiến thức về số học, đo lường, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học đã được học trong môn toán ở Tiểu học. Hơn thế nữa phần lớn các biểu tượng, khái niệm, qui tắc tính chất toán học ở Tiểu học đều được học sinh tiếp thu qua con đường giải toán chứ không phải qua con đường lý luận. Vì vậy tôi quyết chọn đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một học tốt phần giải toán có lời văn”. 
 II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
 Đề ra một số biện pháp giúp học sinh nắm vững mạch kiến thức Giải toán có lời văn lớp Một, tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Toán, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy mạch kiến thức về Giải toán có lời văn nói riêng và môn Toán nói chung. 
 III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
 Đề tài nghiên cứu và tổng kết một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp Một trường tôi học tốt dạng toán giải có lời văn.
 IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 - Phương pháp điều tra, phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn, phương pháp thống kê.
PHẦN II: NỘI DUNG
 I. CƠ SỞ LÍ LUẬN 
 Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lí của học sinh lớp Một. Căn cứ vào nội dung kiến thức trong sách giáo khoa môn Toán ở bậc Tiểu học nói chung. Toán lớp Một nói riêng được biên soạn hợp lí theo vòng tròn đồng tâm. Các em được học từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ tư duy trực quan đến tư duy trừu tượng. Dạy nội dung: “Giải toán có lời văn” nói riêng là yêu cầu cơ bản mà kiến thức kĩ năng sau khi học sinh học hết lớp Một phải đạt được. Do vậy mà học sinh phải đạt được yêu cầu này là đạt chuẩn về kiến thức một phần của giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng vào giải toán kết hợp với kiến thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề trong toán học. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh đọc - hiểu - biết hướng giải đưa ra phép tính kèm câu trả lời và đáp số của bài toán. Giải toán có lời văn góp phần củng cố kiến thức toán, rèn luyện kỹ năng diễn đạt, tích cực góp phần phát triển tư duy cho học sinh . Do đó để đạt được kết quả cao khi học phần “Giải toán có lời văn” là một việc làm rất cần thiết đối với học sinh lớp Một. 
 Trong các mạch kiến thức Toán ở chương trình Toán Tiểu học thì mạch kiến thức “Giải toán có lời văn” là mạch kiến thức khó khăn nhất đối với học sinh và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Bởi vì đối với lớp Một: vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế, kỹ năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện pháp, phương pháp học toán, học toán và giải toán một cách máy móc nặng và rập khuôn, bắt chước. 
 II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
 1. Về học sinh. 
 Trong nhiều năm được phân công giảng dạy lớp Một. Qua việc dạy phần giải toán có lời văn tôi nhận thấy như sau. 
 * Về ưu điểm : 
 - Học sinh được gia đình quan tâm, có đủ sách vở và dụng cụ học tập.
 - Học sinh ham học, có hứng thú học tập môn Toán nói chung và “Giải bài toán có lời văn”  nói riêng.
 - Học sinh bước đầu biết vận dụng bài toán có lời văn vào thực tế.
 * Về hạn chế : 
 - Một số học sinh trình bày bài làm chưa sạch đẹp, còn lúng túng khi đặt câu lời giải, viết phép tính và đơn vị chưa đúng.
 - Khả năng kiên trì của học sinh lớp Một trong quá trình học nói chung cũng như học “Giải toán có lời văn”  nói riêng còn chưa cao.
 2. Về giáo viên. 
 * Ưu điểm: Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm và chỉ đạo sát sao về công tác chuyên môn. Đội ngũ giáo viên luôn được tham gia đầy đủ các chuyên đề nâng cao chất lượng dạy học do phòng Giáo dục và Đào tạo và nhà trường tổ chức.
 - Nhà trường luôn xây dựng các tiết dạy chuyên đề nên giáo viên có điều kiện học hỏi các đồng nghiệp. 
 * Hạn chế: Một số giáo viên chưa phát huy được tích cực chủ động của học sinh, chưa nắm vững phương pháp dạy dạng Toán giải đôi khi phức tạp hóa vấn đề làm cho học sinh khó hiểu bài. Trong quá trình lên lớp, một số giáo viên ngại sử dụng đồ dùng minh hoạ, ngại tóm tắt bằng sơ đồ hình vẽ hoặc đoạn thẳng, sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp trong việc giúp học sinh tìm đường lối giải và giải toán còn khó hiểu. Giáo viên còn lúng túng khi tạo các tình huống sư phạm để nêu vấn đề. Chưa khuyến khích động viên và giúp đỡ một cách hợp lý các nhóm cũng như các đối tượng học sinh trong quá trình học.
 Qua thực tế cũng như qua nhiều lần dự giờ thăm lớp và trao đổi với đồng nghiệp, tôi nhận thấy rằng: Trong các mạch kiến thức toán ở chương trình toán tiểu học thì mạch kiến thức “Giải toán có lời văn” là mạch kiến thức khó khăn nhất đối với học sinh đặc biệt là học sinh lớp Một. Bởi vì đối với lớp Một, vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy, suy luận của các em còn hạn chế, nên trong quá trình làm bài vẫn còn một số em làm chưa thật sự được tốt. 
 3. Khảo sát:
 Khi dạy mạch kiến thức giải toán có lời văn tôi đã tiến hành khảo sát ở lớp 1B - lớp tôi thực dạy - với nội dung sau: Tìm hiểu số học sinh viết đúng câu lời giải, số học sinh viết đúng phép tính, số học sinh viết đúng đáp số và số học sinh biết giải đúng cả 3 bước (ngay tuần 23) thì kết quả thu được như sau : 
Đề bài: Đàn vịt có 5 con ở dưới ao và 4 con ở trên bờ. Hỏi đàn vịt có tất cả mấy con?
Tổng số học sinh
Nội dung
Giai đoạn đầu
( tuần 23)
Giai đoạn sau
( cuối năm )
SL
TL(%)
SL
TL
32 em
HS viết đúng câu lời giải
20
62.0
HS viết đúng phép tính, đơn vị
22
68.2
HS viết đúng đáp số
22
68.2
HS giải đúng cả 3 bước
20
62.0
 ơ 
 Với kết quả khảo sát như trên tôi thấy tỉ lệ học sinh làm đúng cả 3 bước giải trong một bài toán giải có lời văn chưa cao, điều đó khiến tôi rất trăn trở và cần phải có biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh. Và qua thực tế giảng dạy từ những năm học trước, tôi đã đúc rút và mạnh dạn đề xuất một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp Một học "Giải toán có lời văn" được tốt hơn để làm nền móng cho những năm học tiếp theo. 
 III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
 Bản thân tôi đã áp dụng một số biện pháp sau đây ngay từ đầu năm học để giúp học sinh học tốt hơn môn Toán nói chung cũng như thực hiện thành thạo về giải toán có lời văn nói riêng ở lớp 1.
 1. Nắm chắc nội dung chương trình Giải toán có lời văn lớp 1:
 Để dạy tốt môn Toán lớp 1 nói chung, “Giải toán có lời văn ” nói riêng, điều đầu tiên là mỗi giáo viên phải nắm chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa.
 Trong chương trình Toán lớp 1 giai đoạn đầu, học sinh còn đang học chữ nên chưa thể đưa ngay “Bài toán có lời văn”. Mặc dù đến tuần 21, các em mới được chính thức học “Bài toán có lời văn” và cách giải “Bài toán có lời văn”, song chúng ta đã ngầm chuẩn bị từ xa cho việc làm bài tập này ngay từ bài: “Phép cộng trong phạm vi 3” (Luyện tập) ở tuần 7. Bắt đầu từ tuần 7 cho đến tuần 16, trong hầu hết các tiết dạy về phép cộng trong phạm vi (không quá) 10 đều có các bài tập thuộc dạng “Nhìn tranh viết phép tính vào dãy 5 ô trống”.
Ví dụ: Dạy bài Luyện tập trang 45
         Bài 5 a):  SGK (trang 46 Toán 1)
1
2
=
3
 Sau khi quan sát tranh vẽ giáo viên hướng dẫn học sinh tập nêu bằng lời: “ Có 1 quả bóng, thêm 2 quả bóng nữa. Hỏi có tất cả mấy quả bóng”, rồi tập cho các em nêu miệng câu trả lời: “Có tất cả 3 quả bóng”.  Như vậy các em đã được làm quen với bài toán ở dạng quan sát hình minh hoạ rồi viết phép tính thích hợp vào ô trống. Dạng bài này là bước khởi đầu của dạng bài toán có lời văn các em sẽ được học ở tuần 21 nên tôi hướng dẫn các em quan sát hình vẽ minh hoạ rất kĩ và nêu câu hỏi gợi mở giúp các em miệng từ 3 đến 5 lần để hình thành bài toán, từ đó đã bồi dưỡng cho các em vốn ngôn ngữ, cách diễn đạt. Bước đầu giúp các em biết diễn đạt bài toán bằng lời văn. Sau đó viết phép tính vào ô trống:
1
+
2
=
3
Ở dạng này, giáo viên cần hướng dẫn các em thực hiện theo các bước cụ thể:
- Bước 1:  Xem tranh vẽ.
- Bước 2: Nêu bài toán bằng lời.
- Bước 3: Nêu câu trả lời.
- Bước 4: Viết phép tính thích hợp với tình huống trong tranh.
 Tuy không yêu cầu cao, tránh tình trạng quá tải với học sinh, nhưng có thể động viên học sinh năng khiếu làm nhiều cách, có nhiều cách diễn đạt từ một hình vẽ hay một tình huống trong sách giáo khoa. Mức độ yêu cầu của các bài toán được tăng dần, học sinh có thể nhìn từ một tranh vẽ như bài 4 ( trang 77 SGK Toán lớp 1 ) diễn đạt theo 2 cách : 
Ví dụ 1a : Viết phép tính thích hợp :
Cách 1: Có 8 con xúc xắc, thêm một Cách 2: Có 1 con xúc xắc, đang đưa lại con xúc xắc, tất cả có 9 con xúc xắc. chỗ 8 con xúc xắc, có tất cả 9 con xúc 
 xắc.
8
+
1
=
9
1
+
8
=
9
Hay ở ví dụ 1b : Viết phép tính thích hợp:
 Tôi yêu cầu học sinh quan sát tranh vẽ và có thể nêu miệng bài toán như sau:
 Có 7 bạn, có 2 bạn đang chạy tới. Hỏi có tất cả mấy bạn? ( hoặc Có 2 bạn đang chạy tới 7 bạn. Hỏi có tất cả mấy bạn?). Học sinh dễ dàng điền được phép tính thích hợp theo bài toán các em đã đặt.
2
+
7
=
9
7
+
2
=
9
	 Hoặc
Ví dụ 2 : Bài 3b (trang 85 SGK Toán lớp 1) :
 Học sinh quan sát và cần hiểu được: Lúc đầu trên cành có 10 quả. Sau đó rụng 2 quả. Còn lại trên cành 8 quả. 
10
-
2
=
8
 Ở đây giáo viên cần khuyến khích các em diễn đạt, trình bày miệng, ghi đúng phép tính. Giáo viên cần động viên các em nên nhiều tình huống khác nhau trong một tranh và viết được nhiều phép tính nhằm phát triển tư duy toán học trên cơ sở tư duy ngôn ngữ của học sinh.
 Khi dạy dạng bài nhìn hình vẽ viết phép tính thích hợp, cần cho học sinh quan sát tranh tập nêu bài toán và thường xuyên rèn cho học sinh thói quen nhìn hình vẽ nêu bài toán. Có thể tập cho những em học sinh có năng khiếu tập nêu câu trả lời cứ như vậy trong một khoảng thời gian chuẩn bị như thế thì đến lúc học đến phần bài toán có lời văn học sinh sẽ không ngỡ ngàng và các em sẽ dễ dàng tiếp thu, hiểu và giải đúng.
 Giai đoạn tiếp theo đó, kể từ tuần 17, học sinh được làm quen với việc đọc tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời, sau đó nêu cách giải và tự điền số và phép tính thích hợp vào dãy 5 ô trống. Học sinh từng bước làm quen với lời thay cho hình vẽ, các em dần dần thoát ly khỏi hình ảnh trực quan từng bước tiếp cận đề bài toán. Yêu cầu học sinh phải đọc và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề bài và lời; giải bài toán bằng lời; chọn phép tính thích hợp viết vào ô trống nhưng chưa cần viết  lời giải.
Ví dụ: Dạy bài Luyện tập chung (SGK trang 89 - SGK Toán 1)
Bài 5 : Viết  phép  tính  thích  hợp:
a)      Có                 :  5  quả
 Thêm            :  3  quả
 Có tất cả       :  quả ?
5
+
3
=
8
     b)     Có              :   7 viên bi
 Bớt             :  3 viên bi
 Còn            :  viên bi?     
7
-
3
=
4
 Khi dạy những bài này, tôi thấy chỉ dựa vào tóm tắt bài toán thì rất khô khan khó hiểu các em không thể tưởng tượng được bài toán nên tôi thường đặt câu hỏi gợi mở cho các em. Tôi thường vận dụng bài toán vào thực tế ví dụ như:  có thể đây là mẹ có, hoặc bà có, hay chị có;; còn quả ở đây có thể là quả cam, hay táo, hay lê,qua đó hướng dẫn các em nêu thành bài toán chẳng hạn: Mẹ có 5 quả cam, mẹ mua thêm 3 quả nữa. Hỏi mẹ có tất cả mấy quả cam? Hoặc Bà có 5 quả táo, bà mua thêm 3 quả nữa. Hỏi bà có tất cả mấy quả táo?  
 Ở dạng này tôi thường hướng các em dựa vào tóm tắt nêu đề toán, sau đó mới viết phép tính thích hợp vào ô trống theo từng bước cụ thể sau:
Bước 1: Yêu cầu vài em đọc tóm tắt bài toán.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh nêu đề toán.
Bước 3: Hướng dẫn các em nêu phép tính thích hợp.
Bước 4: Hướng dẫn học sinh viết phép tính vào ô trống.
 Qua đó, các em đã được làm quen dần và cũng là cầu nối với dạng bài toán có lời văn ở tuần 21. Có bài được cài sẵn “cốt câu” hỏi, lời giải vào tóm tắt để các em có thể dựa vào đó mà viết câu lời giải.
 Giai đoạn tiếp theo, trước khi chính thức học “Giải toán có lời văn”, học sinh được học bài nói về cấu tạo của một bài toán có lời văn (gồm hai thành phần chính là những cái đã cho (đã biết) và những cái phải tìm (chưa biết). bằng cách cho học sinh tiếp cận với một đề bài toán chưa hoàn chỉnh kèm theo hình vẽ và yêu cầu hoàn thiện (tiết 81- bài toán có lời văn ). Tư duy HS từ hình ảnh phát triển thành ngôn ngữ, thành chữ viết. Giải toán có lời văn ban đầu được thực hiện bằng phép tính cộng. 
 Để giúp các em hiểu sâu hơn về cấu tạo của bài toán có lời văn, sách Toán 1 đã vẽ bốn bức tranh, kèm theo là bốn đề toán: 2 đề còn thiếu dữ kiện, 1 đề còn thiếu câu hỏi, 1 đề thiếu cả dữ kiện lẫn câu hỏi (biểu thị bằng dấu ) Học sinh quan sát tranh rồi nêu miệng đề toán, sau đó điền số vào chỗ các dữ kiện rồi điền từ vào chỗ câu hỏi (còn để trống). Từ đó giáo viên giới thiệu cho các em “ Bài toán thường có hai phần” : 
+ Những cái đã cho ( dữ kiện ).
+ Và cái phải tìm ( câu hỏi ).
Ví dụ: Dạy bài : Bài toán có lời văn (Tiết 81 - trang 115) gồm 4 bài toán có yêu cầu khác nhau. 
 * Bài toán còn thiếu số (Cái đã cho)
 Ví dụ 1: Bài 1 (trang 115 SGK Toán lớp 1)	
Bài toán 1 : Có ... bạn, có thêm ... bạn đang đi tới. Hỏi tất cả có bao nhiêu bạn?
Bài toán 2 : Có ... con thỏ, có thêm ... con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu con thỏ?
 Ở cả hai bài toán này yêu cầu học sinh quan sát tranh và điền dữ kiện còn thiếu vào chỗ chấm (....)
 * Bài toán còn thiếu câu hỏi ( cái cần tìm):
Ví dụ 2 : Bài 3 (trang 116 SGK Toán lớp 1)
Bài toán : Có 1 gà mẹ và có 7 gà con. Hỏi ...................................................?
 Bài toán này yêu cầu học sinh quan sát tranh và điền câu hỏi còn thiếu vào chỗ chấm (....)
 * Bài toán còn thiếu cả số, cả câu hỏi ( cái đã cho và cái cần tìm)
Ví dụ 3 : Bài 4 (trang 116 SGK Toán lớp 1)	
Bài toán : Có .... con chim đậu trên cành, có thêm .... con chim bay đến. Hỏi.... ?
 Bài toán này yêu cầu học sinh quan sát tranh và điền dữ kiện còn thiếu và điền câu hỏi còn thiếu vào chỗ chấm (....)
 Dạy dạng toán này, giáo viên phải xác định làm thế nào giúp các em điền đủ được các dữ kiện (cái đã cho và cái cần tìm) còn thiếu của bài toán và bước đầu các em hiểu được bài toán có lời văn là phải đủ các dữ kiện; đâu là cái đã cho và đâu là cái cần tìm.
 Để đạt được yêu cầu này, trước hết GV nêu yêu cầu bài toán, cho vài ba học sinh nhắc lại yêu cầu bài toán. Sau đó giáo viên hướng dẫn các em quan sát hình vẽ minh hoạ (SGK)                                  
Bước 1:  GV đặt câu hỏi - HS trả lời và điền số còn thiếu vào chỗ chấm để có bài toán. Giáo viên kết hợp dùng phấn màu ghi số còn thiếu vào bài toán mẫu trên bảng lớp.
+ Có mấy bạn ở bên trái ?  (HS trả lời, nhận xét).
+  Có mấy bạn ở bên phải đang đi tới ? (HS trả lời, nhận xét).
- Cho vài em nhắc lại.
- Cho HS viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán.
- Cho các em đọc lại bài toán (đọc cá nhân, đồng thanh).
Bước 2:  Hướng dẫn các em xác định cái đã cho và cái cần tìm (dữ kiện và yêu cầu bài toán). Dùng phấn màu gạch chân dữ kiện và từ quan trọng (tất cả) của bài toán.
   Sau khi hoàn thành 4 bài toán trên, giáo viên nên cho các em đọc lại và xác định bài 1 và 2 thiếu cái đã cho; bài 3 thiếu cái cần tìm; bài 4 thiếu cả cái đã cho và cái cần tìm. Qua đó giúp các em hiểu được bài toán có lời văn đầy đủ phải có đủ dữ kiện (cái đã cho và cái cần tìm).
 Lưu ý : Khi hướng dẫn học sinh quan sát hình vẽ giáo viên nên chỉ cụ thể bên trái, bên phải, bên trên hay bên dưới hoặc dấu hiệu thể hiện trên hình vẽ (người; con vật) đang đứng hay đang đi đến, đang đậu, đang bay đi hay bay đến,để các em không nhầm lẫn khi viết phép tính)
 Như vậy, qua bài học này giáo viên đã giúp học sinh hiểu sâu hơn về cấu tạo của “Bài toán có lời văn”.
 2. Hướng dẫn học sinh các bước giải bài toán có lời văn ở lớp 1:
 Để hình thành cách giải bài toán có lời văn, SGK đã nêu một bài toán, phần tóm tắt đề toán và giải bài toán hoàn chỉnh để học sinh làm quen. 
Ví dụ 1 : Bài 1 (trang 117 SGK - Toán lớp 1).
 An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng ?
 Ở giai đoạn này giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm vững đề toán, thông qua việc tóm tắt đề toán. Biết tóm tắt đề toán là yêu cầu đầu tiên để giải bài toán có lời văn. Bài giải gồm 3 phần: Câu lời giải, phép tính và đáp số.
 Chú ý rằng tóm tắt không nằm trong lời giải của bài toán, nhưng phần tóm tắt cần được luyện kỹ để học sinh nắm được bài toán đầy đủ, chính xác. Câu lời giải trong bài giải không yêu cầu mọi học sinh phải theo mẫu như nhau, tạo điều kiện cho học sinh diễn đạt câu trả lời theo ý hiểu của mình. Quy ước viết đơn vị của phép tính trong bài giải học sinh cần nhớ để thực hiện khi trình bày bài giải. 
 Bài toán giải bằng phép tính trừ được giới thiệu khi học sinh đã thành thạo giải bài toán có lời văn bằng phép tính cộng. Giáo viên chỉ hướng dẫn cách làm tương tự, thay thế phép tính cho phù hợp với bài toán.
 Ở lớp Một, học sinh chỉ giải toán v