Quá Trình Phát triển Của Sinh Viên Đại Học – Phần 1 — InPsychOut

Theo Chickering, quá trình phát triển của sinh viên tuổi mới lớn được đánh giá qua bảy phương diện sau [11]: 

  1. Phát triển năng lực (competence) – Bao gồm năng lực trí tuệ, thể chất và giao tiếp giữa các cá nhân.

  2. Quản lý cảm xúc (managing emotions) – Biết cách hiểu, chấp nhận và bày tỏ cảm xúc.

  3. Tự chủ thành tự lập (moving through autonomy toward interdependence) – Biết cách tách biệt cảm xúc cá nhân và không phụ thuộc vào sự chấp thuận, ủng hộ, an ủi từ người khác. Đồng thời, sinh viên cũng nhận ra bản thân là một cá nhân độc lập, tồn tại bằng sự lệ thuộc lẫn nhau với cộng đồng.

  4. Phát triển mối quan hệ trưởng thành với các cá nhân khác (developing mature interpersonal relationships) – Học cách trân trọng và hiểu người khác.

  5. Thiết lập danh tính (establishing identity) – Trở nên thoải mái với bản thân, từ ngoại hình, giới tính, dân tộc cho đến vai trò xã hội.

  6. Hình thành mục đích (developing purpose) – Khả năng cam kết cho tương lai và có thể đặt ra và tuân theo các quyết định của chính mình.

  7. Phát triển tính chính trực (developing integrity) – Nhân tính hóa và cá nhân hóa các tiêu chuẩn giá trị, và tìm đến sự tương đồng giữa niềm tin và hành động của cá nhân. 

Học thuyết này dựa trên thuyết phát triển tâm lý xã hội của Erikson nói trên và được sử dụng khá phổ biến để xây dựng những mô hình phát triển toàn diện cho sinh viên đại học tại Mỹ. 

Lược đồ trí tuệ (intellectual schema) của William Perry

Theo Perry, sinh viên đại học trải qua bốn giai đoạn sau nhằm đạt tới sự “chín muồi” của nhận thức [12]:

  1. Nhận thức nhị nguyên (dualistic). Trong giai đoạn này, tân sinh viên bước vào học đường với mong muốn nhận được lời giải đáp “đúng-sai” cho mọi câu hỏi. Sinh viên tin rằng kiến thức là một khái niệm trắng-đen rõ ràng và thường xuyên tìm kiếm thông tin phản ánh sự thật (fact) để kết luận cái gì đúng, cái gì sai.

  2. Nhận thức đa nguyên (multiplicity). Sinh viên nhận ra rằng không có gì là sự thật tuyệt đối, rằng mọi kiến thức mang tính chủ quan hơn nhiều so với mong đợi của mình. 

  3. Nhận thức về sự tương đối (relativism). Sau khi hiểu được rằng sẽ không có câu trả lời nào là duy nhất, sinh viên sẽ phải đối mặt với những khoảng mờ của kiến thức. Khái niệm “đúng-sai” dần biến mất, thay vào đó, sinh viên biết cách nhận ra ý kiến/câu trả lời nào có thể “đúng hơn” do được đánh giá và lập luận chặt chẽ hơn. 

  4. Sự cam kết (commitment). Cuối cùng, sinh viên chọn cho mình những ý kiến/câu trả lời có nhiều luận cứ ủng hộ hơn và phù hợp với hoàn cảnh hơn. Khả năng này giải phóng sinh viên khỏi ám ảnh phải đi tìm một giải pháp tuyệt đối và trở nên thoải mái hơn khi đưa ra định hướng cho bản thân.

Qua kết quả công trình nghiên cứu kéo dài hơn 15 năm này của Perry, ta thấy được quá trình phát triển nhận thức của sinh viên được tóm lược với một nhiệm vụ rõ ràng cho từng giai đoạn [13]. Nhận ra vị trí của mình trong lược đồ nhận thức này không chỉ giúp sinh viên có định hướng, cảm hứng hơn trong việc học mà còn có thể giúp chính giảng viên và hệ thống giáo dục đại học tìm được cách hỗ trợ sinh viên sớm đạt đến giai đoạn nhận thức cao nhất, chứ không phải chờ đến ngày tốt nghiệp. 

Dựa trên ba cơ sở lý thuyết trên, ta có thể nhận ra một đòi hỏi khổng lồ được đặt ra cho sinh viên đó là: Làm thế nào để giữ được trạng thái cân bằng? Nói cách khác, làm thế nào để cân bằng những vai trò xã hội khác nhau giữa tuổi vị thành niên và tuổi mới trưởng thành, giữa sự định hình cá tính bản thân và đồng cảm với người khác, và giữa sự tương đối của kiến thức với việc giữ vững lập luận cá nhân?

Liệu người trẻ mới trưởng thành có thể trải qua giai đoạn này một cách suôn sẻ khi không có sự hướng dẫn và hỗ trợ từ nhà trường? 

Câu hỏi này chính là tiền đề cho xu hướng cung cấp dịch vụ cho sinh viên và tạo ra môi trường giáo dục toàn diện (whole person education) từ sau những năm 1960s tại Mỹ. Nó thay thế cho một mô hình giáo dục đại học đã trở nên lỗi thời in loco parentis, hay in the place of a parent (tạm dịch: thay mặt phụ huynh) [14]. Mô hình in loco parentis chỉ tập trung vào việc giảng dạy đạo đức, nhân cách một cách thụ động, hiện vẫn còn được sử dụng ở các cấp tiểu học, trung học nhưng không còn được áp dụng trong giáo dục đại học nữa. Trái ngược với quan điểm thụ động này, mô hình phát triển toàn diện (holistic development) tạo cơ hội cho sinh viên chủ động học hỏi, trưởng thành, và phát triển theo đặc tính riêng của bản thân [15]. Không chỉ đề cao học vấn, nền giáo dục toàn diện (whole person education/ holistic education/ somatic education) tập trung vào sự phát triển của sinh viên đại học trên năm yếu tố: thể chất, cảm xúc, xã hội, trí thức, và nghề nghiệp [16]. Ví dụ, trường mình đang theo học – Loyola Marymount University tại bang California – một trong những ngôi trường khởi đầu sứ mệnh giáo dục toàn diện, đưa ra ba mục tiêu chủ chốt như sau [17]: 

  1. Khuyến khích sự tích hợp của cá nhân sinh viên trong tư duy, cảm nhận, lựa chọn, và phát triển bản thân không chỉ về học thức và nghề nghiệp, mà còn cả về thể chất, xã hội, tâm lý, đạo đức, văn hóa, và tôn giáo/tâm linh.

  2. Thúc đẩy sự hình thành nhân cách và giá trị, ý nghĩa và mục đích của sinh viên. 

  3. Khuyến khích sinh viên, giảng viên, nhân viên trường áp dụng tri thức và đạo đức từ nhà trường vào thực hiện những công việc có ý nghĩa cho sự đổi mới không ngừng của xã hội.

Qua đó, ta thấy rằng với phương thức giáo dục toàn diện, sinh viên được tự do thử nghiệm, tìm tòi, chọn lọc và thực hành áp dụng những kiến thức từ sách vở vào cuộc sống của chính bản thân. Sự khuyến khích trí tò mò này chính là một động lực vô cùng lớn trong quá trình tự học và tự nghiên cứu những vấn đề sinh viên thực sự quan tâm. Hơn thế nữa, nền giáo dục toàn diện còn chuẩn bị cho sinh viên những kỹ năng quan trọng để có thể đưa ra những quyết định phù hợp nhất trước bất kỳ tình huống nào.
Cũng theo xu hướng giáo dục toàn diện, nhiều trường đại học tại Việt Nam đang dần đưa những chỉ tiêu về hoạt động hỗ trợ đời sống cho sinh viên vào định hướng đào tạo. Báo cáo thường niên năm 2020 của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) đề cập đến mục tiêu trang bị những “năng lực thích ứng với những yêu cầu mới về nghề nghiệp và biến động xã hội”, nhằm bắt kịp “xu hướng hiện đại của các trường đại học quốc tế” [18]. Trong một bài phỏng vấn năm 2015, tiến sĩ Võ Văn Sen nhấn mạnh rằng triết lý giáo dục của trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM giai đoạn 2016-2030 bao gồm giáo dục toàn diện, khai phóng, và đa văn hoá (dịch từ whole person, liberal, multicultural education). Trong đó, tính “toàn diện”, theo ông, đề cập tới khía cạnh “đạo đức, trí tuệ, thể lực và thẩm mỹ của sinh viên” [19].

Từ hai góc nhìn cách trở địa lý Việt-Mỹ như trên, có thể nhận thấy một điểm chung rằng, nền giáo dục đại học toàn diện không chỉ đề cao thành tích học tập và thành công sự nghiệp, mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự kết hợp nhiều khía cạnh phát triển khác nhau, nhằm tạo ra một tầng lớp công dân tự lập và thành đạt. Về điểm khác nhau, tuy cùng hướng đến mục tiêu giáo dục toàn diện, nhưng sự toàn diện trong cách hiểu tại Việt Nam chưa nhắc đến một phần rất lớn của sự phát triển – khía cạnh tâm lý/cảm xúc/định hình cá tính, trong khi đây là một trong những mối quan tâm lớn nhất của sinh viên trong độ tuổi mới trưởng thành như ta đã rút ra được từ những học thuyết phát triển trên.

Kết luận

Trong phần này, mình đã giới thiệu định nghĩa về tuổi mới trưởng thành và quá trình phát triển của độ tuổi này qua ba học thuyết phát triển: thân mật hay cô lập (intimacy vs. isolation) của Erikson, bảy phương diện đặc tính của Chickering, và bốn cấp bậc phát triển nhận thức của Perry. Mình cũng đề cập đến định nghĩa và những lợi ích của nền giáo dục toàn diện đối với sự phát triển của sinh viên. Những góc nhìn này, theo mình, là tiền đề cho việc tìm hiểu những khó khăn sinh viên có thể gặp phải trong phần tiếp theo của bài viết với tựa đề “Sức khỏe Tâm lý của Sinh viên Đại học”.

Biên tập: Tiên Trần & Hương Lê

Minh hoạ: La Quỳnh

Danh sách tham khảo

[1] United Nations Population Fund. World population dashboard viet nam. [cited 2021 Feb 25].  Available from: https://web.archive.org/web/20210107085552if_/https://www.unfpa.org/data/world-population/VN 

[2] UNICEF Viet Nam. Launch of key findings of viet nam’s first large-scale national survey on people with disabilities (2016). Last modified 2019 Oct 1. Available from: https://www.unicef.org/vietnam/press-releases/launch-key-findings-viet-nams-first-large-scale-national-survey-people-disabilities 

[3] Luật Việt Nam. Nghị định 141/2020/NĐ-CP chế độ cử tuyển đối với học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số. Available from: https://luatvietnam.vn/giao-duc/nghi-dinh-141-2020-nd-cp-che-do-cu-tuyen-voi-hoc-sinh-sinh-vien-dan-toc-thieu-so-195276-d1.html 

[4] Arnett JJ. Emerging adulthood: the winding road from the late teens through the twenties. New York, NY: Oxford University Press; 2015. 

[5]  Miller C. College Enrollment Statistics [2021]: Total + by Demographic. EducationData 2019 [cited 2021 Mar 7]. Available from: https://educationdata.org/college-enrollment-statistics#by-age. 

[6] Erikson EH. Childhood and society. 2nd ed. New York: Norton; 1963.

[7] Capuzzi D, Stauffer MD. Human growth and development across the lifespan: applications for counselors. Hoboken, NJ: Wiley; 2016, 416 p.

[8] Capuzzi D, Stauffer MD. 417 p.

[9] Hamachek D. Evaluating self-concept and ego status in Erikson’s last three psychosocial stages. Journal of Counseling & Development. 1990 [cited 2021 Mar 6]68(6):677–83. As cited in Capuzzi D, Stauffer MD; 418 p.

[10] Capuzzi D, Stauffer MD. 418 p.

[11] Chickering AW, Reisser L. Education and identity. 2nd ed. San Francisco, CA: Jossey-Bass; 1993.

[12] Degges-White S, Borzumato-Gainey C. College student mental health counseling: a developmental approach. New York, NY: Springer Publishing Company; 2014. 6 p.

[13] William PG Jr. Forms of intellectual and ethical development in the college years: a scheme. New York: Holt, Rinehart, Winston; 1970.

[14] Gladding ST. Counseling: A comprehensive profession. Pearson Education; 2018. 

[15] Gladding ST. 365 p.

[16] Gladding ST. 366 p.

[17] Loyola Marymount University. Education of the whole person [Internet]. Los Angeles, CA [cited 2021 Feb 25]. Available from: https://mission.lmu.edu/mission/missionstatement/educationofthewholeperson.

[18]  Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Báo cáo thường niên 2020, 37 p. Ho Chi Minh City, Vietnam [cited 2021 Feb 25]. Available from: https://static.vnuhcm.edu.vn/images/AR%202020_dualenweb-210127012223.pdf.

[19] Nam Phong. Nội hàm của triết lý giáo dục: giáo dục toàn diện – khai phóng – đa văn hóa. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ho Chi Minh City, Vietnam [cited 2021 Feb 25]. Available from: https://tamly.hcmussh.edu.vn/?ArticleId=d3511358-a51e-4bb0-aaf9-76fb30197a4b&fbclid=IwAR1kiSC2rwMSglc-IcHKYKcpmWgFUtAbK7WUJcKoIRk3g5bXcY_P22rO_-s.