Phuong_phap_luan_nghien_cuu_khoa_hoc_de_tai_ao_dai_viet_nam_5596 – Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp

Trang phục là một trong ba yêu cầu của đời sống vật chất (ăn, mặc, ở) đây là sản phẩm văn hoá sớm nhất của xã hội loài người. Theo thời gian, trang phục cũng thay đổi theo quá trình phát triển của lịch sử. Đối với mỗi một quốc gia, trang phục cũng trở thành một yếu tố quan trọng tạo nên nét đẹp văn hóa riêng biệt qua từng thời kỳ, mang tính đậm đà và vẻ đẹp của mỗi dân tộc. Là người Việt Nam em thật tự hào và kiêu hãnh khi được nói tới chiếc áo dài Việt Nam-một nét đẹp về trang phục truyền thống của người Việt từ thời xa xưa. Bộ trang phục này thường được mặc trong các dịp trọng đại vì nó mang vẻ đẹp thướt tha trang nghiêm thùy mị.và hơn nữa trang phục áo dài cả nam và nữ đều có thể mặc được, nó ngày càng trở nên phổ biến và trở thành nét đẹp về thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam.
Là sinh viên năm nhất của trường Đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp em chọn nghệ thuật là con đường riêng cho sự phát triển của bản thân, mong muốn được tiếp thu, học hỏi và lĩnh hội những nét đẹp trong văn hóa của cuộc sống muốn được tìm hiểu sâu về những nét đẹp về trang phục của đất nước mình.

docx

34 trang

|

Chia sẻ: lvbuiluyen

| Lượt xem: 4735

| Lượt tải: 2

download

Bạn đang xem trước

20 trang

tài liệu Phuong_phap_luan_nghien_cuu_khoa_hoc_de_tai_ao_dai_viet_nam_5596, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

MỤC LỤC
Trang
A. Phần mở đầu: ………………………………………………….. 2
I. Lý do chọn đề tài …………………………………………………… 2
II.Tình hình nghiên cứu ………………………………………………….. 2
III.Mục đích nghiên cứu ………………………………………………….. 3
IV.Nhiệm vụ phạm vi ………………………………………………….. 3
V. Phạm vi nghiên cứu ………………………………………………….. 3
VI.Cái mới ………………………………………………….. 4
VII.Kết cấu đề tài ………………………………………………….. 4
B.Phần nội dung: …………………………………………………… 4
Chương I. Lịch sử hình thành và sự tích về chiếc Áo dài…………… 4
I.1. Nguồn gốc lịch sử của Áo dài…………………………………………..4
I.2. Lịch sử hình thành …………………………………………………..6
I.3. Sự hình thành ……………………………………………………12
I.4. Các kiểu Áo dài ……………………………………………………18
Chương II. Sự phát triển và những nét mới, sự cách tân của chiếc áo
Dài qua từng giai đoạn …………………………………………………. 25
II.1. Sự phát triển …………………………………………………..25
II.2 Sức hấp dẫn của áo dài …………………………………..27
III.3Những nét mới và sự cách tân …………………………………………29
C.Kết luận……………………………………………………………………………..31
D. Tài liệu tham khảo………………………………………………………………31
Đề tài: ÁO DÀI VIỆT NAM
A . MỞ ĐẦU
I .Lý do chọn đề tài
Trang phục là một trong ba yêu cầu của đời sống vật chất (ăn, mặc, ở) đây là sản phẩm văn hoá sớm nhất của xã hội loài người. Theo thời gian, trang phục cũng thay đổi theo quá trình phát triển của lịch sử. Đối với mỗi một quốc gia, trang phục cũng trở thành một yếu tố quan trọng tạo nên nét đẹp văn hóa riêng biệt qua từng thời kỳ, mang tính đậm đà và vẻ đẹp của mỗi dân tộc. Là người Việt Nam em thật tự hào và kiêu hãnh khi được nói tới chiếc áo dài Việt Nam-một nét đẹp về trang phục truyền thống của người Việt từ thời xa xưa. Bộ trang phục này thường được mặc trong các dịp trọng đại vì nó mang vẻ đẹp thướt tha trang nghiêm thùy mị…và hơn nữa trang phục áo dài cả nam và nữ đều có thể mặc được, nó ngày càng trở nên phổ biến và trở thành nét đẹp về thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam.
Là sinh viên năm nhất của trường Đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp em chọn nghệ thuật là con đường riêng cho sự phát triển của bản thân, mong muốn được tiếp thu, học hỏi và lĩnh hội những nét đẹp trong văn hóa của cuộc sống muốn được tìm hiểu sâu về những nét đẹp về trang phục của đất nước mình.
Chính vì những lý do trên, em quyết định chọn đề tài với tên gọi:”Áo dài Việt Nam”
II .Tình hình nghiên cứu
Qua thời gian tìm hiểu những thông tin, áo dài là loại trang phục truyền thống của Việt Nam, xuất hiện vào thế kỷ 18 gồm phần áo mặc bên ngoài có hai tài và quần dài. Trang phục thường được che thân từ cổ đến quá đầu gối qua thời gian chiếc áo dài đã trải qua nhiều sự phát triển, cải tiến. Bộ áo dài nguyên thủy là áo ngũ thân rất rộng và không bám vào ngừơi như Áo dài hiện nay. Cũng có người cho rằng Áo tứ thân mới là Áo dài đầu tiên, đã được biến thành áo Ngũ thân và cuối cùng mới thành chiếc áo dài ngày nay. Có lẽ chưa có một văn bản nào quy định áo dài là quốc phục chính thức của phụ nữ Việt Nam. Thế nhưng trong thực tế, hễ nói đến phụ nữ Việt Nam thì không thể không nói đến. Có thể nói rằng đất Việt chúng ta đa dạng trong nhiều loại trang phục từ kiểu dáng đế màu sắc, nhưng bất cứ một con dân người Việt đều biết về chiếc áo dài đã xuất hiện từ xa xưa cho đến tận ngày nay với kiểu dáng và lịch sử của nó mang lại niềm tự hào cho mỗi người.
Qua đó em tìm hiểu qua nhiều thông tin sách báo và một số các tư liệu tìm đọc để nghiên cứu nên lịch sử hình thành và phát triển của chiếc Áo dài Việt Nam qua các giai đoạn, về tiền thân lịch sử và sự phát triển của trang phục với sự cách tân về kiểu dáng đa dạng trong nét đẹp của dân tộc và những tính cần thiết trong sự lưu giữ và phát triển nét đẹp vốn có của nó. Đó là vấn dề cần được đề cập và nghiên cứu trong đề tài trên.
III .Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm góp phần làm rõ hơn những lí luận về sự phản ánh văn hoá qua trang phục của đất nước, tiêu biểu cho nét đẹp đó là chiếc Áo dài Việt giúp các bạn sinh viên khoa Tạo dáng nói riêng và sinh viên trường đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp nói chung hiểu rõ hơn về nguồn gốc, sự phát triển với những nét mới của chiếc Áo dài- bản sắc của dân tộc Việt Nam.
III .Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Khái quát hoá lí luận về vấn đế nghiên cứu.
2. Áp dụng những ví dụ thực tế để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
IV .Phạm vi nghiên cứu
1. Phạm vi về đối tượng nghiên cứu :
Phân tích để làm rõ nguồn gốc sự tích của chiếc áo dài thời xưa và sự đổi mới của nó qua các thời kỳ.
2. Phạm vi về khách thể nghiên cứu :
Nghiên cứu dựa vào những tài liệu, thông tin, sách vở sưu tập được cùng với nhứng suy nghĩ, ý kiến chủ quan của bản thân.
V. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết tốt các nhiệm vụ nói trên, đề tài nghiên cứu đã sử dụng một số các phương pháp nghiên cứu sau đây :
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
2. Phương pháp thực tiễn.
       a- Phương pháp tổng hợp, khái quát tài liệu, thông tin.
       b- Phương pháp viết.
VI .Cái mới (đóng góp của đề tài)
Đề tài trên nêu được lịch sử hình thành, những nét đổi mới trong trong cách tân về màu sắc, họa tiết của chiếc Áo dài đồng thời nêu lên được vẻ đẹp vốn quý của nó trong từng giai đoạn dù có đổi khác vẫn giữ được nét đẹp mềm mại thướt tha đậm màu sắc Việt mà không bị mai một.
VII .Kết cấu của đề tài
Đề tài trên gồm hai phần :
A. Phần mở đầu : -Lý do chọn đề tài
-Tình hình nghiên cứu
-Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
-Phạm vi nghiên cứu
-Phương pháp nghiên cứu
-Cái mới (đóng góp của đề tài)
-Kết cấu của đề tài
B.Phần nội dung :
Chương I. Lịch sử hình thành và sự tích của chiếc Áo dài.
Chương II. Sự phát triển và những nét mới, sự cách tân của chiếc áo dài qua từng giai đoạn.
C.Kết luận
B . NỘI DUNG
CHƯƠNG I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ SỰ TÍCH VỀ CHIẾC ÁO DÀI
I.1- Nguồn gốc lịch sử của Áo dài:
Biểu trưng mạnh mẽ cho dân tộc Việt Nam của tà áo dài. Trải qua nhiều thăng trầm, chiếc áo dài trở thành một hình ảnh gắn liền và là niềm tự hào của người Việt. Để có được vị trí như hôm nay, áo dài cũng đã trải qua một bề dày lịch sử với nhiều mốc đáng nhớ.
Mọi người dân Việt Nam đều biết áo dài là trang phục truyền thống của quốc gia mình. Nhưng nếu hỏi về nguồn gốc của áo dài thì có lẽ không phải ai cũng biết và hiểu sâu sắc. Trước tiên ta phải tìm hiểu về tên “áo dài”. Nếu theo giọng Nam, áo dài sẽ được đọc là “ Ao yai”, còn ở miền Bắc thì được đọc là “ ao Zai”. Đối với người dân Việt Nam cái tên “Áo dài” đã trở nên thân thuộc từ lâu.
      Thật ra cho đến nay vẫn chưa ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thuỷ ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao vì không có nhiều tài liệu ghi nhận. Y phục xa xưa nhất của người Việt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách đây khoảng vài nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Sử gia Đào Duy Anh đã viết: “ Theo sách sử ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên của chúng ta, mặc áo dài về bên tả ( hình thức tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu Chân dung kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách đỏ chép thì ta có thể suy luận rằng trước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chiếc người Trung Quốc mới mặc gài về tay phải. Vì thế có thể coi kiểu sơ khai của áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại, áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng màu buông thả.
Không thể xác định niên đại chính xác của áo dài, bởi ngay tà áo được coi là quốc phục của người Việt cũng phải trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, thời gian, du nhập nhiều nền văn hóa qua nhiều giai đoạn mới có ngày hôm nay. Tuy nhiên, ngay trên những tranh khắc của Trống đồng Ngọc Lũ cách đây vài nghìn năm đã thấy thấp thoáng bóng dáng của tà áo dài, tranh khắc trang phục của phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ.
Tại sao nói trang phục với hai tà áo xẻ lại là bóng dáng của áo dài, vì nét đặc trưng mạnh mẽ nhất của áo dài chính là hai tà áo. Cho dù trải qua bao nhiêu ngàn năm với bao nhiêu biến thể, nét duy nhất còn nhận ra được trang phục truyền thống của người Việt không bị lai tạp với các nền văn hóa khác chính là hai tà áo dài.Có nhiều người cho rằng áo dài Việt là một bản khác của sườn xám của phụ nữ Trung Quốc, nhưng chiếc sườn xám chỉ xuất hiện vào khoảng 1920, còn tà áo dài Việt đã có từ rất lâu trước đó. Điều đó chứng tỏ áo dài là một nét văn hóa của riêng Việt Nam, chỉ người Việt mới có. Và khi nói đến khía cạnh thẩm mỹ, văn hóa và trang phục truyền thống của người Việt Nam, người ta thường nghĩ ngay đến tà áo dài và chiếc nón lá, thật vậy, trải qua từng thời kỳ, từng giai đoạn cùng với những diễn biến của quá trình phát triển lịch sử, tà áo dài Việt Nam tồn tại cùng với thời gian, được xem là trang phục truyền thống mang tính lịch sử lâu đời của người Việt.
Vua chúa ngày xưa vì quyền lợi giai cấp và huyết thống, họ đã có những chủ trương phản truyền thống, phản dân tộc và đã bị quần chúng đấu tranh loại bỏ. “Quần hai ống” và “áo dài” của phụ nữ Việt Nam tuy xuất phát cùng ở trong mục đích ấy, nhưng may thay, nó đã thừa kế được cái đẹp của phụ nữ phương Bắc cũng như phương Nam, phù hợp với dáng người Việt Nam, nên nó đã được chấp nhận và trở nên một tài sản văn ohoa1 của người phụ nữ Việt Nam.
I.2 – Lịch sử hình thành:
Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm bốn vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo tứ thân được mặc ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ.
Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ hơn, muốn có một kiểu áo dài được cách tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi thành bốn) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học Đông phương.
I.2.2 Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát
Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát được xem là người có công khai sáng và định hình chiếc áo dài Việt Nam.Chịu ảnh hưởng nặng của văn hóa Trung Hoa, cho đến thế kỷ 16 lối ăn mặc của người Việt Nam vẫn thường hay bắt chước lối của người phương Bắc, đặc biệt dưới thời các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong do nhu cầu khai phá khẩn hoang, đón nhận hàng vạn người Minh Hương (còn gọi là người Khách Trú hay đọc trại thành “cắc chú”) bất mãn với nhà Thanh sang định cư lập nghiệp, mặc dù người Việt cũng có lối ăn mặc riêng. Trước làn sóng xâm nhập mới này, để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong phải theo đó thi hành. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo dài Việt Nam, như sau: “Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép …” (sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên). Trong Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quý Đôn viết “Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang sử đầu cho chiếc áo dài như vậy”.
Căn cứ theo những chứng liệu này, có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cố định đã ra đời và chính thức được công nhận là quốc phục dưới triều chúa Nguyễn Vũ Vương (1739-1765). Vào thời này, các văn bản tại Việt Nam dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm, áo dài viết bằng chữ Nôm là 襖長.
Một vài tài liệu quy kết việc ra đời của chiếc áo dài quốc phục là do những tham vọng riêng tư của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Do muốn xưng vương và tách rời Đàng Trong thành quốc gia riêng, nên ban sắc dụ về ăn mặc như trên cho khác đi, không phải với người khách trú mà với Bắc triều (trong quy định này đã có cả chỉ thị phụ nữ phải mặc quần hai ống). Sau thấy quần hai ống khêu gợi quá, Vương mới giao cho triều thần pha phối từ mẫu áo dài của người Chăm (giống như áo dài phụ nữ Việt Nam ngày nay, nhưng không xẻ nách) và áo dài của phụ nữ Thượng Hải (chiếc sườn xám) để “chế” ra cái áo dài của phụ nữ Việt Nam. Chiếc áo dài đầu tiên giống như áo dài người Chàm và có xẻ nách. Thật ra chiếc sườn xám cũng chỉ ra đời quãng thập niên 1930, và quan điểm trên quá thiên nặng về tính chống phong kiến nên vô hình chung đề cao vai trò của Vũ Vương như là “nhà thiết kế áo dài hiện đại đầu tiên”.
I.2.3Thời vua Minh Mạng
Cho đến thế kỷ 17 truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: “… áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế…”. Vậy có thể nói rằng bộ áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia Long (1802-1819). Sở dĩ có sự ước đoán này, vì mặc áo ngũ thân thì phải mặc quần chớ không thể mặc váy. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới xuất hiện câu ca dao than vãn:
Tháng Tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!
I.2.4 Đời sống mới
Các bộ phận của một chiếc áo dài kiểu mới
Năm 1947 trong bối cảnh Việt Nam mới tuyên bố độc lập và các phong trào “diệt giặc đói, giặc dốt” đang được phát động, nhằm phát động phong trào tiết kiệm, ngày 20 tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh, với bút hiệu Tân Sinh, đã viết một cách vắn tắt rõ ràng và dễ hiểu bài “Đời sống mới” trong đó vận động người dân bỏ thói quen mặc áo dài để thay bằng áo vắn vì mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt, luộm thuộm. Áo dài tốn vải, khoảng hai cái áo dài may được ba cái áo vắn, nếu chỉ mặc áo vắn có thể sẻn được 200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ Việt Nam đời sống mới. Cuộc vận động này dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài không còn là trang phục thông dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thời gian dài ở miền bắc vĩ tuyến 17.
I.2.5Áo dài Le Mur
“Le Mur” chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường, một họa sĩ vào thập niên 1930 đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn. Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều biến cải mà nhiều người thời đó cho là “lai căng” thái quá, như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa áo Le Mur mặc cho đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm. Lối tân thời này đã bị một số dư luận khi đó tẩy chay và cho là “đĩ thõa” (như được phản ảnh không hề thiện cảm trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng).
Theo tài liệu thu thập được thì hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường là người đầu tiên đã cải tiến chiếc áo dài cho phụ nữ Việt Nam. Ông sinh năm 1912 tại Sơn Tây. Năm 17 tuổi, ông trúng tuyển vào trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội và tốt nghiệp vào năm 1934.
Ông là người đã đóng góp rất nhiều trong việc sáng chế các kiểu quần áo cho phụ nữ Việt Nam. Vào đầu thập niên 1930, chiếc áo dài thuần tuý của Việt Nam bắt đầu thay đổi, giới phụ nữ bắt đầu mặc áo mầu và năm 1934, hoạ sĩ Cát Tường đã tung ra một loạt các loại mẫu áo dài tân thời trong tập san Đẹp 1934 và báo Phong Hoá thời bấy giờ, dưới cái tên “Lemur”.
Sau đó, ông tiếp tục thiết kế nhiều mẫu áo dài cho phụ nữ, nữ sinh và áo ngắn mặc trong nhà. Ngoài chuyện cải tiến áo dài cho phụ nữ, và đóng góp vào việc thiết kế các kiểu y phục thích hợp với thân hình, lại làm tăng vẻ đẹp của phái nữ, hoạ sĩ Cát Tường còn cải tiến và mỹ thuật hoá chiếc xích lô đạp thời bấy giờ và được dân chúng ủng hộ nhiệt tình.
Tiếc thay, vào ngày 17 tháng 12 năm 1946, ông bị dân quân bắt tại Hà Nội và đưa đi biệt tích.Mặc dù họa sĩ đã ra đi một cách bất ngờ gần 75 năm trước, nhưng bóng dáng của chiếc áo dài mà hoạ sĩ tài ba Cát Tường thiết kế vẫn tiếp tục xuất hiện tại Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới. Tà áo dài tha thướt, nhã nhặn, kín đáo và duyên dáng làm tăng thêm vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, và là niềm hãnh diện cho người Việt.
Những chiếc áo dài đầu tiên:
Từ Los Angeles, California, nhiếp ảnh gia Nguyễn Trọng Hiến, người con trai của hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường kể về chiếc áo dài của phụ nữ ngày xưa:
Màu của nó u tối, chỉ có mầu nâu hay màu đen. Áo lùng thùng, ba bốn tà, quần thì rộng. Sự đổi mới của Việt Nam lúc đó bắt đầu có trong Nam. Ngoài Bắc thì hay mặc mầu nâu, màu đen, trong Nam thì có những lối mặc khác, áo thì màu khác, nhưng thường thường thì màu vẫn không được tươi lắm.
Khi ông Cát Tường bắt đầu vẽ y phục cho phụ nữ, thì ông nhận thấy quần là cái quan trọng nhất. Nó phải bó sát mông, xuống đùi hơi rộng và gấu quần hơi loe ra một chút để khi đi, dáng được tha thướt…
Sau đó, lưng quần dùng dây chun để cho máu được lưu thông, mình kéo lên hay kéo xuống rất tiện. Cái áo dài thì tuỳ muà, mùa đông thì cần phải che kín cổ, muà hè thì bật để cho mát. Vai áo bó chặt quá thì người đàn bà không thể giơ tay lên được, nên vai áo phải làm hơi rộng một chút, tay thì vẫn thon lại…Màu sắc thì chủ trương tùy theo màu da, màu tóc hay khung cảnh thời tiết. Thí dụ mùa hè đừng nên mặc áo chói chang quá, nên chọn màu nhẹ.
Nhân nói đến chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam ngày nay, ông Hiến cho hay là bây giờ, chiếc áo dài đã trở thành quốc phục nhưng lại không còn được xử dụng hàng ngày như trước, trừ các em nữ sinh hay trong các dịp lễ lớn mà thôi, ông nói:
Tôi đi chụp hình ở Việt Nam cũng nhiều, từ Bắc đến Nam, các em đi học mặc áo dài, cầu Trường Tiền hay tỉnh Bạc Liêu, các em mặc áo dài nhiều lắm. Bây giờ, các ngày lễ lớn, áo dài trở thành một quốc phục. Phụ nữ bây giờ độc lập lắm, họ muốn quần áo của họ phải hợp thời trang tăng vẻ đẹp, và đi dộng dễ dàng. Còn áo dài của mình tương đối còn tha thướt và yểu điệu quá…
Tết là một trong những dịp mà khách hàng đến rất nhiều. Thương hiệu của tôi là chuyên về áo dài, mỗi lần Tết hình như là mọi người muốn quay về cội nguồn, kể cả nam nữa, thế hệ trẻ bây giờ tụi nó cũng lại để mua áo dài nam nữa.
Điều đáng mừng là mọi người, nhiều lứa tuổi, mặc áo dài nhiều…Nói chung, mình thấy văn hoá của mình không bị mai một, mà gần như lớp trẻ cũng hiểu biết thêm về cội nguồn của mình và trong ngày Tết thì ưu tiên cho trang phục quốc phục của mình nhiều hơn…Trong