Phương pháp thực nghiệm khoa học – KHÁI NIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC – 123docz.net

I. KHÁI NIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

d. Phương pháp thực nghiệm khoa học

Là phương pháp thu thập các sự kiện trong những điều kiện được tạo ra một
cách đặc biệt (tạo ra kinh nghiệm mới, lý thuyết mới để khẳng định những mối liên
hệ dự kiến sẽ có trong những điều kiện mới) đảm bảo cho sự thể hiện tích cực, chủ
động của các hiện tượng, sự kiện nghiên cứu.

Nói cách khác: Là chủ động gây ra hiện tượng nghiên cứu trong những điều
kiện khống chế, nhờ đó có thể lặp lại nhiều lần, tách bạch ra và biến thiên từng
nhân tố tác động và đánh giá, đo đạc tỉ mỉ sự biến đổi của hiệu quả theo sự biến
thiên ấy.

– Phương pháp thực nghiệm khoa học là một trong các phương pháp cơ bản
trong nghiên cứu khoa học. Song chỉ được sử dụng khi và chỉ khi đặt ra bài toán
làm sáng tỏ các mối liên hệ, sự phụ thuộc, giữa các hiện tượng nghiên cứu và sự thể
hiện các giả định, kiểm định các giả thuyết.

+ Biết được chính xác những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự nảy sinh và diễn
biến của các hiện tượng nghiên cứu.

+ Xác định được những nguyên nhân của các hiện tượng do vạch ra được các
điều kiện ảnh hưởng.

+ Lặp lại thí nghiệm nhiều lần tuỳ theo ý muốn và như vậy sẽ thu được, tích
luỹ được những tài liệu định lượng mà từ đó có thể phán đoán về tính điển hình hay
ngẫu nhiên của các hiện tượng nghiên cứu.

Tính chất đặc trưng của phương pháp thực nghiệm:

+ Cho khả năng nghiên cứu các hiện tượng với việc xác định đúng đắn các
tác động quyết định để làm nhanh lên hoặc chậm lại các quá trình.

+ Cho khả năng thực hiện độc lập với môi trường (thực nghiệm trong phòng
thí nghiệm).

+ Việc bổ sung nội dung của đối tượng thực hiện bằng các thành phần mới
để làm thay đổi sự phát triển của đối tượng.

+ Kiểm định các giả thuyết giả định đã nêu ra và có những kết luận về chúng.
+ Giải thích các kết quả nhờ các công cụ và phương tiện đặc biệt.

– Yêu cầu cơ bản của việc sử dụng phương pháp thực nghiệm:

+ Không được cản trở hoặc đảo lộn tiến trình hoạt động bình thường của đối
tượng nghiên cứu.

+ Chỉ được tiến hành thực nghiệm khi có đầy đủ luận cứ: mục đích; điều kiện
(cơ sở lý luận, giả thuyết khoa học, đối tượng, tác động, phương pháp nghiên cứu,
địa bàn thực nghiệm, lực lượng tham gia thực nghiệm v.v…); các bước thực
nghiệm; xử lý kết quả; phân tích lý luận; khái quát hoá và hình thành tri thức mới…
để tin tưởng rằng việc đưa ra những cái mới đã được kiểm tra vào quá trình nghiên
cứu chỉ có thể góp phần nâng cao hiệu quả và thành công của công trình nghiên

– Phân loại: thường chia thành hai loại phương pháp thực nghiệm chính:
+ Thực nghiệm tự nhiên.

+ Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm.

Ngoài ra do mục đích và mức độ nghiên cứu người ta còn chia thành các loại
phương pháp thực nghiệm khác như:

+ Thực nghiệm thăm dò.
+ Thực nghiệm xét nghiệm.
+ Thực nghiệm định tính.
+ Thực nghiệm định lượng…

(1) Thực nghiệm tự nhiên

Là phương pháp tiến hành trong điều kiện bình thường, giữ được trạng thái và
nội dung hoạt động tự nhiên của đối tượng mà người nghiên cứu vẫn chủ động gây
ra được những hiện tượng cần nghiên cứu.

Thực chất của phương pháp này là đem vấn đề nghiên cứu ra tổ chức thực
hiện ở một địa bàn nhất định với những yêu cầu nhất định đối với những đối tượng
thực hiện. Người nghiên cứu đưa ra kế hoạch thật tỉ mỉ, hợp lý tạo điều kiện thực
hiện, có theo dõi, có đối chứng để cuối cùng có được những kết luận về tác dụng
của những vấn đề mới đưa ra và phổ biến rộng rãi việc áp dụng.

(2) Thực nghiêm trong phòng thí nghiệm

Là phương pháp thực nghiệm được tiến hành để kiểm tra một vấn đề riêng biệt
nào đó, hoặc để thu thập những cứ liệu cần thiết về đối tượng nghiên cứu.

Phương pháp này có thể dùng các thiết bị chuyên môn, phương tiện kỹ thuật
đặc biệt. Nếu không thì có thể dùng các tài liệu thực nghiệm được soạn thảo đặc
biệt.

Phương pháp thực nghệm trong phòng thí nghiệm nói chung trước đây ít được
ứng dụng để nghiên cứu trong khoa học giáo dục, chủ yếu dùng trong việc nghiên
cứu các đối tượng – sự vật, hiện tượng, quá trình của tự nhiên và xã hội. Ngày nay,
có thể dùng phương pháp này trong việc nghiên cứu hoạt động của con người: vận
động, trí nhớ, chú ý, trí tuệ, tình cảm, ý chí và còn sử dụng rộng rãi trong việc
nghiên cứu cơ chế sinh lý của các thể hiện tâm lý ở con người, các quá trình nhận
thức và trạng thái tâm lý riêng lẻ mà trước hết là cảm giác, tri giác, trí nhớ, chú ý…
(người ta dùng máy tốc thị giản đơn hay điện tử để nghiên cứu tốc độ tri giác, khối
lượng chú ý…).

– Nếu không sử dụng thiết bị máy móc thì dùng tài liệu được soạn thảo một
cách chuyên biệt làm phương tiện kích thích các hiện tượng tâm lý cần nghiên cứu.
Đó là một loạt chữ số, những đoạn câu mạch lạc hay không mạch lac, các loại từ có
hoặc không có màu sắc xúc cảm… để nhận biết.

Khác với thực nghiệm tự nhiên, thực nghiệm trong phòng thí nghiệm có thể
là:

Thực nghiệm xác nhận: có hay không có hiện tượng này khác.

Thực nghiệm hình thành: nghiên cứu các hiện tượng trực tiếp trong quá trình
hình thành tích cực những đặc điểm này hay khác.

– Các quy tắc vận dụng phương pháp thực nghiệm khoa học:
+ Xây dựng sơ đồ thực nghiệm nhân tố (định tính).

+ Nêu giả thuyết về hiệu quả có thể xác định được đã được phát hiện ra quá
trình nghiên cứu trước.

+ Ước lượng các biến thiên: có những yếu tố không đo đạc được phải lượng
hoá việc đo đạc. Người ta dùng phương pháp đơn giản:

• Dùng phương pháp ghi dấu: dùng dấu hiệu qui ước nào đó của đối tượng
nghiên cứu, khi gặp lại có thể đánh dấu và đếm được các dấu (như đếm lỗi chính
tả).

• Lập biểu phân hạng (xếp hạng): xếp các đối tượng thành một dãy theo tiêu
chuẩn tăng dần hoặc giảm dần và sau đó gán cho mỗi đối tượng (hiện tượng)
nghiên cứu một số chỉ rõ một đối tượng.

+ Khống chế các tác động thực nghiệm:

• Khống chế ảnh hưởng thứ tự các tác động (dùng kỹ thuật hoán vị).

• Khống chế những điều kiện chủ quan của đối tượng được thực nghiệm để nó
cân bằng và ổn định.

• Khống chế những tác động không thực nghiệm (giảm entropi).

+ Đảm bảo tính chất tiêu biểu của đối tượng nghiên cứu: quy nạp các đối
tượng nhỏ để có tác dụng phổ biến, nên mẫu nghiên cứu phải tiêu biểu.

Có hai cách chọn nhóm mẫu:

Ngẫu nhiên: theo thống kê xác suất (chọn bất kỳ).
Chọn mẫu đại diện (chọn tỷ lệ tất cả như nhau).
+ Ghi biên bản: Cần ghi biên bản tỷ mỷ, chính xác.

– Phương pháp thực nghiệm khoa học cho phép đi sâu vào quan hệ bản chất,
xác định được các quy luật, phát hiện ra các thành phần và cơ chế chính xác, kết
quả thu được có độ tin cậy cao. Nhà nghiên cứu không thụ động chờ đợi sự xuất
hiện các hiện tượng mà mình quan tâm mà tự mình tạo ra các điều kiện nên có khả
năng tính đến một cách đầy đủ hơn các điều kiện đó cũng như những ảnh hưởng
mà các điều kiện ấy gây ra cho đối tượng (người được nghiên cứu). Song hạn chế
của phương pháp thực nghiệm khoa học là: hiện tượng diễn ra không được thực
như tự nhiên, đòi hỏi phải có thiết bị, kỹ năng, tổ chức, thời gian tương đối phức

tạp, khó có thể dùng phương pháp này để nghiên cứu những hoạt động diễn biến
phức tạp trong tư tưởng, tình cảm con người.