Phát triển con người Việt Nam toàn diện trong thời kỳ mới
Với xã hội hiện đại, nguồn tài nguyên, của cải đích thực và quý giá nhất của mỗi quốc gia chính là con người của quốc gia đó. Vì vậy, mục đích phát triển kinh tế – xã hội, xét đến cùng, phải vì con người, tạo môi trường thuận lợi để con người có cuộc sống hạnh phúc, có sức khỏe và có cơ hội phát huy mọi năng lực sáng tạo.
Tuy nhiên, trên thực tế, không phải quốc gia nào cũng nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ và từ đó, dành mọi nỗ lực để hiện thực hoá điều này.
Mục tiêu phát triển toàn diện con người có thực hiện được hay không, đạt tới mức độ nào, ngoài việc dựa trên sự phát triển về kinh tế, còn tùy thuộc đáng kể vào bản chất của chế độ chính trị cũng như sự nhận thức của lực lượng lãnh đạo xã hội về vị trí, vai trò của con người trong sự phát triển xã hội.
Nội Dung Chính
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người
Tại Đại hội VI (1986) – mốc quan trọng đánh dấu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã đưa ra một loạt quan điểm mới có tính đột phá về nhiều vấn đề hệ trọng, căn bản trong tiến trình phát triển của đất nước trong điều kiện, bối cảnh lịch sử mới. Đó là những nhận thức mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ trương xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp; phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện các chính sách kinh tế và xã hội hướng vào mục tiêu phát triển con người…
Kế thừa chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Vấn đề con người và phát triển con người là một trong những nội dung chủ đạo, mối quan tâm hàng đầu trong hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin. Trong học thuyết về con người của chủ nghĩa Mác – Lenin, con người không những là chủ thể của các hoạt động sản xuất vật chất, đóng vai trò yếu tố cơ bản nhất của lực lượng sản xuất xã hội, mà hơn thế, còn là chủ thể sáng tạo nên lịch sử của xã hội, của con người.
Nhận thức rõ điều đó, C.Mác đã từng khẳng định rằng, ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển con người toàn diện, là nâng cao năng lực, nhân cách và phẩm giá con người, giải phóng con người khỏi mọi sự “tha hóa” và làm cho họ được sống cuộc sống đích thực của con người. Nói cách khác, trong quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin, thực chất của tiến trình phát triển lịch sử xã hội loài người là vì con người, vì cuộc sống ngày càng hạnh phúc và tốt đẹp cho con người; tựu trung lại, đó là giải phóng con người và sự phát triển toàn diện của con người.
Vấn đề con người và phát triển con người là một trong những nội dung chủ đạo trong hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng quan niệm rằng, trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân; rằng trách nhiệm lớn nhất của Đảng và Nhà nước là phải thường xuyên quan tâm, chăm lo cho nhân dân có đời sống vật chất đầy đủ, đời sống tinh thần phong phú và lành mạnh.
Tư tưởng phát triển con người, thường xuyên chăm lo cho hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam đặt lên hàng đầu. Điều này hoàn toàn phù hợp với tôn chỉ của Đảng được xác định ngay từ khi mới thành lập và giữ vững trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng: ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác.
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã nhận thức, bổ sung và phát triển ngày càng đầy đủ hơn, đúng đắn hơn những tư tưởng sâu sắc, có ý nghĩa chỉ đạo và định hướng về vấn đề phát triển con người trong lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin, trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bao trùm toàn bộ đường lối, các chính sách, biện pháp phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội của Đảng là quan điểm vừa mang tính khoa học, vừa chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc – quan điểm coi con người là mục tiêu, đồng thời là động lực của sự phát triển xã hội.
Phát triển con người là thành tựu nổi bật nhất trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam suốt hơn 20 năm qua
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức sâu sắc vai trò đặc biệt quan trọng của nhân tố con người với tính cách động lực của sự phát triển xã hội, của sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của con người trong tiến trình xây dựng xã hội mới, Đảng ta đã khẳng định rằng, nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là con người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam.
Một nền kinh tế trì trệ, nghèo nàn và không có tích luỹ xã hội không thể mang lại sự no ấm, giàu có và phồn thịnh cho con người. Nhưng ngay cả trong điều kiện có nền kinh tế phát triển, chẳng hạn như ở nhiều nước tư bản có tiềm lực kinh tế, vấn đề phát triển con người cũng chưa hẳn đã được giải quyết một cách triệt để. Bởi điều này còn phụ thuộc đáng kể vào bản chất của chế độ chính trị, sự nhận thức về vai trò, vị trí của con người trong xã hội.
Đối với một nước chủ động lựa chọn và kiên trì con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, sự phát triển, tăng trưởng kinh tế, xét đến cùng, cũng là vì con người, hướng đến con người. Có thể khẳng định rằng, đường lối phát triển kinh tế – xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới thực sự xuất phát từ con người, vì mục tiêu phát triển con người.
Thực vậy, đường lối đổi mới và phát triển kinh tế với một loạt nội dung lớn: thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức sở hữu đa dạng, xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp và chuyển sang thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước,… là những biện pháp tích cực để giải phóng sức sản xuất của xã hội, phát huy mọi tiềm năng và sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân nhằm thúc đẩy nền kinh tế của đất nước phát triển.
Đến lượt mình, sự phát triển và tăng trưởng ổn định của nền kinh tế chính là cơ sở, nền tảng vững chắc cho việc thực hiện một mục tiêu xã hội lớn hơn, nhân văn hơn – đó là sự phát triển toàn diện của con người, vì cuộc sống ngày càng tốt đẹp và hạnh phúc của toàn thể nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định dứt khoát rằng, chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội “do nhân dân lao động làm chủ”, “con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”.
Vì thế, phương hướng và mục tiêu lớn nhất của các chính sách xã hội, như Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, là “phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”.
Nhận thức mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người được thể hiện một cách trực tiếp, tập trung và sâu sắc hơn nữa qua quan điểm về sự gắn kết phát triển kinh tế với phát triển xã hội, gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội. Kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn của nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển cho thấy, với họ, tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ tối hậu và mọi biện pháp đều hướng vào việc thực hiện cho được mục tiêu này.
Mong muốn thoát khỏi tình trạng đói nghèo và lạc hậu đã thúc đẩy nhiều quốc gia chậm phát triển tham gia vào cuộc đua tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sự tuyệt đối hoá nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế và tìm mọi cách để thực hiện điều đó bằng mọi giá đã khiến các nước này phải đối mặt với những vấn đề xã hội nghiêm trọng: sự mất cân đối giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, trở thành con nợ lớn của các nước giàu, bất ổn định trong đời sống xã hội,… vốn là những nguy cơ tiềm tàng đe doạ sự phát triển bền vững.
Mặc dù vẫn còn là một nước nghèo, song chúng ta không chủ trương phát triển và tăng trưởng kinh tế một cách thuần tuý, càng không phải bằng mọi giá. Dựa trên những cơ sở khoa học và xuất phát từ đặc điểm lịch sử cụ thể của đất nước, trong tiến trình thực hiện công cuộc đổi mới, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là phải kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội nhằm bảo đảm sự phát triển hài hoà của xã hội, trong đó con người được đặt vào vị trí trung tâm.
Tại Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”.
Phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn kết quả sản xuất cũng như tạo điều kiện cho tất cả mọi người đều được bình đẳng, có cơ hội phát triển như nhau và phát huy năng lực của mình là sự thể hiện một cách tập trung nhất quan điểm của Đảng lấy con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế – xã hội.
Nói cách khác, thực hiện công bằng xã hội trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và trong từng chính sách phát triển chính là biện pháp tích cực nhất để phát triển toàn diện con người.
Trong các kỳ đại hội sau này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp tục khẳng định quan điểm đúng đắn và khoa học đó. Gần đây nhất, tại Đại hội lần thứ X (2006), Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định một trong những đặc trưng quan trọng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là “con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”.
Cụ thể hơn, mục tiêu và phương hướng hành động trong giai đoạn 2006 – 2010 là “phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con người. Có thể nói, quan điểm đó thể hiện sự sáng suốt, khoa học của Đảng ta trong điều kiện lịch sử mới.
Một mặt, nó phù hợp với quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội; mặt khác, phù hợp với nguyện vọng chân chính của nhân dân cũng như bản chất nhân văn và tính ưu việt của chế độ xã hội mà chúng ta đang phấn đấu từng bước xây dựng, hiện thực hoá.
Phát triển con người là mục tiêu của xã hội, thước đo đánh giá sự tiến bộ xã hội
Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới cho thấy, việc giải quyết vấn đề phát triển con người ở nước ta được đánh giá có những chuyển biến tích cực và đạt những kết quả quan trọng: chỉ số phát triển con người (HDI), chất lượng đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường an toàn, lành mạnh…
Sự phát triển, tăng trưởng ổn định của kinh tế đã tạo điều kiện cho việc thực hiện các mục tiêu xã hội, trong đó đáng chú ý nhất là sự tăng tiến liên tục và vững chắc của chỉ số HDI: năm 1985 đạt 0,590, năm 1990 đạt 0,620, năm 1995 đạt 0,672, năm 2000 đạt 0,711, năm 2005 đạt 0,733, năm 2007 đạt trên 0,75%. Điều đáng nói là, chỉ số HDI của Việt Nam đứng trên nhiều nước có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam.
Chính sách xoá đói giảm nghèo tiếp tục được thực hiện có hiệu quả, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 17,8% xuống còn 14,8%. Bên cạnh đó, lĩnh vực giáo dục – đào tạo cũng có những thành tựu đáng kể, nhất là việc phổ cập giáo dục trung học cơ sở, sự phát triển của hệ thống giáo dục các cấp. Sức khoẻ, tuổi thọ trung bình của người dân được nâng lên một bước…
Các kết quả đó cho thấy, ở nước ta, mức độ hưởng lợi của người dân từ sự tăng trưởng kinh tế ngày càng cao. Trong Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 – 2006), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định “con người là vốn quý nhất, phát triển con người với tư cách vừa là động lực vừa là mục tiêu của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước; gắn vấn đề nhân tố con người với tinh thần nhân văn nhằm tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, sống trong một xã hội công bằng và nhân ái, với những quan hệ xã hội lành mạnh. Con người và sự phát triển con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế – xã hội, mở rộng cơ hội, nâng cao điều kiện cho con người phát triển”.
Phát triển con người là chiến lược đúng đắn và khoa học của Đảng
Những kết quả to lớn và quan trọng trong lĩnh vực phát triển con người ở nước ta suốt thời gian qua, theo chúng tôi, mang nhiều ý nghĩa tích cực:
Thứ nhất, thể hiện một cách sinh động, hiện thực quan điểm của Đảng coi con người là mục tiêu của sự phát triển kinh tế – xã hội;
Thứ hai, đó còn là phương thức đầu tư chiến lược phù hợp với xu thế phát triển của thời đại – đầu tư cho con người với tư cách nguồn lực cơ bản nhất của sự phát triển bền vững. Khía cạnh thứ hai này đặc biệt quan trọng, thể hiện sự sáng suốt và trách nhiệm to lớn với tương lai đất nước của Đảng ta trong bối cảnh khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và xu thế hiện thực hoá của kinh tế tri thức.
Có thể khẳng định rằng, việc xác định yêu cầu bồi dưỡng nguồn lực con người như một nội dung cấu thành quan trọng trong chiến lược phát triển con người là rất đúng đắn và khoa học.
Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hoá, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế không thể không dựa vào nhân tố con người.
Do vậy, không thể không bắt đầu từ việc bồi dưỡng, phát triển con người Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực.
Nhận thức sâu sắc vai trò và ý nghĩa lớn lao của việc bồi dưỡng và phát triển con người, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm mang tính định hướng chiến lược – đó là: nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam.
Để thực hiện một cách có hiệu quả nhiệm vụ “nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người” đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới, Đảng ta đã xác định rõ rằng, phát triển khoa học – công nghệ cùng với phát triển giáo dục – đào tạo phải trở thành “quốc sách hàng đầu”, trở thành nền tảng, giá đỡ vững chắc cho việc phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam.
Tiếp tục nhiệm vụ phát triển con người toàn diện phù hợp với yêu cầu khách quan của thời đại
Như vậy, sự phát triển con người không chỉ là chăm lo cuộc sống vật chất và tinh thần ngày càng tốt hơn cho nhân dân với tư cách mục tiêu của sự phát triển xã hội, mà còn là bồi dưỡng toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức và nhân cách cho con người nhằm tạo tiền đề cho việc phát huy nguồn lực này với tư cách động lực quan trọng và căn bản nhất của sự phát triển bền vững.
Đương nhiên, để con người có được sự phát triển toàn diện, từ đó tạo nên nguồn nhân lực có chất lượng cao cho xã hội không thể chỉ dựa vào giáo dục – đào tạo, mặc dù đây là giải pháp căn bản.
Sự phát triển toàn diện của con người cũng như sự hiện hữu của nguồn nhân lực có chất lượng cao chỉ có thể là kết quả tổng hợp của một hệ thống các biện pháp kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội; đồng thời, đó còn là sản phẩm của sự nỗ lực, chung sức, đồng lòng và đầy trách nhiệm của nhiều cấp, nhiều ngành, của toàn xã hội.
Hơn 30 năm đổi mới, việc giải quyết vấn đề phát triển con người ở nước ta đã đạt được những kết quả vững chắc, cả từ phương diện nhận thức của Đảng lẫn phương diện hiện thực cuộc sống.
Tuy nhiên, lịch sử luôn vận động và phát triển không ngừng. Theo đó, việc phát triển con người lên những tầm cao mới, chất lượng mới phù hợp với yêu cầu khách quan của thời đại tiếp tục là mối quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội ta.
Phía trước chúng ta là nhiệm vụ vô cùng to lớn: phải xây dựng được một nền kinh tế phát triển, một nền văn hoá mới, một nền khoa học – kỹ thuật hiện đại và một nền giáo dục tiên tiến.
Những điều kiện đó, như C.Mác đã từng khẳng định, “không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội”, mà quan trọng hơn, “còn là một phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát triển toàn diện”.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản Sự thật, trang 13.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, trang 113.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, trang 68.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Ban Chấp hành Trung ương, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 – 2006), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, trang 79.
5. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 23 (1995), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, trang 688.