Pháp Lục hòa
PHÁP
LỤC HÒA
Thích Đức Thắng
1. Thân hòa cộng trụ, là trên phương diện sinh hoạt hằng ngày trong một tổ chức, chúng ta cùng sống chung trong một tập thể, thường nên chiếu cố giúp đỡ lẫn nhau.
2. Khẩu hòa vô tránh, đứng trên phương diện giao tiếp chỉ bảo qua ngôn ngữ lời nói lẫn nhau, luôn luôn thể hiện tinh thần khuyến khích khuyên bảo cùng nhau làm thiện, dứt trừ làm ác.
3. Ý hòa đồng sự, là đứng trên phương diện tư tưởng, lúc nào cũng tôn trọng và ái kính ý kiến người khác, nếu tư tưởng ý kiến đó là đúng, còn nếu không thì hãy cùng nhau bàn bạc cho ra lẽ và vui vẻ chấp nhận.
4. Giới hòa đồng tu, là chúng ta cùng sống chung trong một tập thể, lúc nào chúng ta cũng nên tuân thủ cùng nhau tu tập theo giới luật chung đã được đặt ra.
5. Kiến hòa đồng giải, là kiến giải có được về chân lý, hay lý đạo đã thông xin chia sẻ cùng mọi người, cùng nhau tu tập.
6. Lợi hòa đồng quân, là tất cả mọi thứ của cải vật chất có được từ sự hỷ cúng của các thí chủ được chia đều cùng nhau một cách bình đẳng một cách hợp pháp, có nghĩa là bình đẳng trong đồng đẳng.
Đó là sáu pháp hòa kính thông dụng mà chúng ta thường nghe thấy hay thọ trì. Nhưng nếu sáu pháp hòa kính này mà theo các văn bản của các kinh luận khác thì chúng ta thấy có sự sai khác về cách dụng ngữ cũng như cách sắp thứ tự của sáu pháp, trong mỗi bản văn mỗi khác nhau. Có lẽ đây là do sự san định sau này trong những kỳ kiết tập kinh điển theo sự phát triển của từng bộ phái để phù hợp với quan điểm của họ mà thôi. Rất mừng là tuy khác nhau trên mặt hình thức và vị trí sắp xếp, nhưng trong các văn bản khác nhau này về nội dung thì không thay đổi; nếu chúng có thay đổi đi chăng nữa thì nội dung đó cũng chỉ khác nhau tùy thuộc vào các thuộc tính hình thành theo từng căn cơ của hành giả mà thôi.
Vì vậy cho nên, ở đây, chúng tôi sẽ trình bày một số ít văn bản trong nhiều văn bản đại diện cho các trào lưu phát triển từ nguyên thỉ cho đến các bộ phái sau này và trong hiện tại chỉ còn đại diện hai bộ phái duy nhất là Tiểu thừa và Đại thừa qua các bản kinh luận sau đây.
Sáu pháp hòa kính đầu tiên được đức Đạo sư nói ra qua tiêu đề là Lục trọng pháp trong kinh Trung A-hàm, 22, được đức Đạo sư đem ra dạy cho Tôn giả A-nan và Sa-di Châu-na nhân hai người đến để trình lên chỗ thấy nghe của Sa-di Châu-na về trường hợp thầy trò Ni-kiền Thân Tử, sau khi ông ta mất đi và những cảnh tượng đau lòng giữa các đệ tử của ông xảy ra. Sự phân hóa phát xuất từ những bản ngã cá nhân được bùng nổ từ sự ẩn nhẫn dưới sự bao trùm khép kín của sư phụ họ, những bản ngã cá thể được bùng vỡ ra từ những ức chế tâm lý đã từng được họ cưu mang thể hiện qua những hành động chống báng nhau, không ai nghe ai! Ai cũng cho mình là nhất, sự ái kính lẫn nhau không còn nữa. Họ tranh đấu, kiện tụng, cột trói nhau, thù nghịch nhau, tranh luận với nhau rằng, “Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết? Ta nói tề chỉnh, còn ngươi không tề chỉnh. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Điều đáng nói trước, ngươi nói sau; điều đáng nói sau ngươi lại nói trước. Ta hơn, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục ngươi, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại.” Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ mong mình nói hơn, mà không có người nào để khiển trách. Những người bạch y tại gia, đệ tử của Ni-kiền Thân Tử, thấy những cảnh tượng như vậy, họ đều chán nản và lảng xa các đệ tử của Ni-kiền Thân Tử này. Vì những điều các đệ tử của Thầy họ nói ra đều là ác pháp luật, không phải là pháp giải thoát, không đưa đến Chánh giác, cũng không phải là lời dạy của đấng Thiện Thệ. Nó là sự băng hoại, không thể đứng vững, không nơi nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc Thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, Sa-di Châu-na đã qua ba tháng an cư mùa mưa, sửa vá lại y áo, mang y cất bát đến thôn Xá-di, rồi qua phía bắc thôn Xá-di, đến rừng Thi-nhiếp-hòa. Sa-di Châu-na cùng với Tôn giả A-nan đi đến chỗ Thế Tôn. Sau khi đến nơi, đảnh lễ sát chân Thế Tôn, rồi ngồi qua một bên. Sa-di Châu-na đem việc này trình lên đức Đạo sư.
Đức Đạo sư nhân cơ hội này dạy cho các học trò của Người về bảy phương pháp đình chỉ mọi sự tranh cãi và pháp lục hòa, vì muốn học trò của Ngài luôn luôn phải sống trong vô sự, thể hiện qua sự ái kính lẫn nhau trong cuộc sống nên Đức Đạo Sư dạy về sáu pháp hòa kính như trong Trung A-hàm 52, kinh 196 Châu-na (T1n26, tr. 755b21) như sau:
“Này A-nan! Nay ta nói cho ngươi sáu pháp ủy lao, hãy lắng nghe kỹ, hãy khéo suy nghĩ kỹ.”
Tôn giả A Nan bạch rằng:
“Kính vâng, con xin vâng lời lắng nghe.”
Phật nói:
“Thế nào là sáu? Thân nghiệp từ hòa hướng đến các vị đồng phạm hạnh, pháp ấy gọi là pháp ủy lao. Đó là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho tương thân, khiến cho tương kính, khiến cho tương trợ, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.
“Khẩu nghiệp nói năng từ hòa, ý nghiệp từ hòa, cũng vậy.
“Có lợi lộc nào đúng pháp mà nhận được, cho đến miếng cơm ở chính trong bình bát của mình, với phần lợi như vậy, mang chia sẻ cho các vị đồng phạm hạnh, pháp đó gọi là pháp ủy lao, là pháp khả ái, pháp khả lạc, khiến cho tương thân, khiến cho tương kính, khiến cho tương trợ, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.
“Nếu có giới nào không bị sứt mẻ, không bị hư thủng, không bị dơ, không bị đen, vững vàng như mặt đất, được Thánh khen ngợi, đầy đủ khéo thọ trì. Với giới phần như vậy, cùng chia sẻ với các vị đồng phạm hạnh, pháp đó là pháp ủy lao, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho tương thân, khiến cho tương kính, khiến cho tương trợ, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.
“Nếu có kiến giải của Thánh có sự xuất yếu, được thông suốt bằng tuệ kiến, đưa đến sự chân chánh diệt khổ, với kiến phần như vậy, cùng chia sẻ với các vị đồng phạm hạnh, pháp đó là pháp ủy lao, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho tương thân, khiến cho tương kính, khiến cho tương trợ, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.
“Này A-nan, Ta vừa nói sáu pháp ủy lao, vì vậy mà Ta giảng giải. Này A-nan, nếu các ngươi đối với sáu gốc rễ của tránh sự mà đoạn tuyệt hoàn toàn, và với bảy pháp đình chỉ tránh sự, khi trong Tăng chúng khởi lên tránh sự, thì chấm dứt bằng luật đình chỉ tránh sự như quăng bỏ giẻ rách, rồi lại thực hành sáu pháp ủy lao ấy, thì này A-nan, như vậy sau khi Ta khuất bóng, các con sống cộng đồng hòa hợp hoan hỷ không tranh chấp, cùng đồng nhất trong một tâm, cùng đồng nhất trong một giáo pháp, hòa hợp như nước với sữa, sống an lạc như lúc Ta còn tại thế.”
Qua đoạn kinh mà đức Đạo sư đã dạy cho Tôn giả A-nan, về mặt hình thức tuy dụng ngữ có những sai khác và cách sắp xếp vị trí cũng không có sự đồng bộ nhất trí như Sáu pháp hòa kính trong Tổ đình sự uyển, nhưng về mặt nội dung ý nghĩa thì không khác. Tuy những dụng ngữ trong mỗi văn bản có sự khác nhau, nhưng cuối cùng cũng đưa đến sự hòa kính tôn trọng lẫn nhau trong một nếp sống tập thể không thiếu lòng từ cho việc lợi tha về mọi mặt trong cuộc sống: Đó là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho mọi người tương thân với nhau, khiến cho mọi người tương kính với nhau, khiến cho mọi người cùng tương trợ với nhau qua cuộc sống, khiến cho mọi sự tu tập tinh tấn hơn, khiến cho cuộc sống nội bộ cùng chung một tập thể có sự đoàn kết thân ái hơn, cũng là nhân đưa đến sự tác thành cuộc sống Phạm hạnh của một Sa-môn, đưa đến nhất tâm và tinh cần thật sự cho việc hành giả chứng đắc Niết-bàn. Qua sáu pháp hòa kính, mỗi một pháp tự có giá trị cho tự thân chúng tùy theo từng thuộc tính một, nếu hành giả theo đó mà thực hành đúng như lời đức Đạo Sư đã dạy thì việc chứng đắc Niết-bàn trước sau gì cũng sẽ đạt được.
Cũng theo kinh Tăng Nhất A-hàm 29 (Đ.2, Tăng Nhất A-hàm 29, Lục trọng pháp, tr.0708c), đức Đạo sư dạy cho các Tỳ-kheo:
“Các ngươi hãy suy niệm sáu trọng pháp, kính trọng, tôn trọng, và ghi nhớ mãi ở trong tâm không cho quên mất. Sao gọi là sáu? Ở đây, Tỳ-kheo thân hành niệm từ, như soi gương thấy hình mình, đáng kính, đáng quý, không để quên mất.
“Lại nữa, khẩu hành niệm từ, ý hành niệm từ, đáng kính, đáng quý, không để quên mất.
“Lại nữa, được các thứ lợi lộc đúng pháp thì nên chia đều cho các phạm hạnh cùng hưởng, không tưởng tiếc rẻ; pháp này đáng kính, đáng quý, không để quên mất.
“Lại nữa, có các giới cấm không hủ, không bại, cực kỳ hoàn hảo, không sứt, không thủng, được bậc trí quí trọng, lại muốn đem giới này phân bố cho người khác cũng đồng một vị; pháp này đáng kính, đáng quý không để quên mất.
“Lại nữa, chánh kiến của Hiền Thánh dẫn đến xuất yếu; có kiến giải như vậy, và muốn các vị phạm hạnh đồng tu cùng đồng pháp này, cũng đáng kính, đáng quý, không để quên mất.
“Này Tỳ-kheo, đó gọi là có sáu trọng pháp đáng kính, đáng quý, không để quên mất. Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy thường xuyên tu tập các hành vi của thân, miệng, ý; nếu được các thứ lợi dưỡng, cũng nên nghĩ phân đều cho nhau, chớ khởi tưởng tham.” Kinh này tương đồng với Tăng Chi Bộ kinh của Pāli qua sáu pháp ủy lạo Pāli, (M.104 Sāmagāmasutta (R.iii.250): cha sārāṇīya-dhammā).
Giữa hai bản kinh Trung A-hàm và Tăng Nhất A-hàm về vị trí theo thứ tự có sự thống nhất, tuy những dụng ngữ không giống nhau, nhưng về nội dung thì không khác. Sự khác nhau trong dụng ngữ để khế hợp với từng căn cơ chủng loại của trình độ người nghe mà đức Đạo sư phương tiện giảng thuyết. Theo kinh Trung A-hàm thì trước khi Ngài dạy cho Tôn giả A-nan và Sa-di Châu-na về Sáu pháp hòa kính thì Ngài và nhân việc khởi lên tranh cãi nhau, bất hòa nhau trong cuộc sống tập thể của các đệ tử ngoại đạo Ni-kiền Thân Tử về bảy phương pháp để đưa đến việc chấm dứt mọi việc tranh cãi bất hòa nhau trong cuộc sống, đó chỉ là Bảy pháp diệt tránh và sau đó mới dạy về Sáu pháp hòa kính. Qua thời gian, hai bản kinh được đức Đạo sư nói ra là khác nhau, nhưng nội dung ý nghĩa thì đồng nhau trên cương vị đưa hành giả đến chỗ thanh tịnh hóa ba nghiệp thân, khẩu, ý. Đây chính là một phương pháp vừa tự độ và cũng vừa độ tha trong một cộng đồng tập thể sống chung với nhau, qua việc tự hoàn thiện cá nhân mình, thanh tịnh hóa ba nghiệp của mỗi người và qua đó cũng cảm hóa được nhau nhờ sự giúp đỡ lẫn nhau trong việc tấn tu đạo nghiệp, nhưng lệ thuộc vào những hoàn cảnh sống chung quanh với bản thân cá nhân của mỗi một cá thể được cụ thể hóa qua việc hòa đồng cùng đem lại lợi ích cho nhau về vật chất cũng như tinh thần qua giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải và lợi hòa đồng quân. Đó chính là những yếu tố cần thiết trong một tập thể sống nếu muốn trở nên an lạc và hạnh phúc ngay hiện tại.
Theo A-tỳ-đạt-ma Tập Dị Môn Túc luận 15, Sáu pháp hòa kính này là Sáu pháp khả hỷ và được
Tôn giả
Xá-lợi-phất trình bày như sau: “Sao gọi là sáu? là nếu có Tỳ-kheo nào ở chỗ
Đại sư
cùng người trí đồng
Phạm hạnh
, khởi nghiệp thân
từ bi
thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ nhất. Do pháp này nên có thể phát ra đáng yêu (khả ái), có thể phát ra sự
tôn trọng
, có thể phát ra
vừa ý
(
khả ý
), và cũng có khả năng
dẫn đạo
khả ái,
tôn trọng
,
khả ý
, vui ý,
nhiếp thọ
mọi
hoan hỷ
không trái, không ngăn, đi về một hướng.
Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào ở chỗ
Đại sư
cùng người trí đồng
phạm hạnh
, khởi nghiệp khẩu
từ bi
thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ hai. Do pháp này nên có thể
phát khởi
khả ái, nói rộng
cho đến
không ngăn đi về một hướng.
Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào ở chỗ
Đại sư
cùng người trí đồng
phạm hạnh
, khởi nghiệp ý
từ bi
thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ ba. Do pháp này nên có thể
phát khởi
khả ái, nói rộng
cho đến
không ngăn đi về một hướng.
Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào nhờ pháp thu hoạch được những
lợi dưỡng
như pháp
, thì những
thức ăn
có được từ những bát thấp nhất
cho đến
những bát trung; những
lợi dưỡng
này cùng những người trí đồng
phạm hạnh
cùng nhau
thọ dụng
không được phân ra cất giấu, thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ tư. Do pháp này nên có thể
phát khởi
khả ái, nói rộng
cho đến
không ngăn đi về một hướng.
Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào đã
thọ trì
giới có được, không khuyết, không rỉ, không tạp, không nhơ,
ứng cúng
không chấp
thiện,
cứu cánh
thiện, nhận lấy những lời
xưng tán
không hủy báng những người trí, đối với những giới như vậy cùng người trí đồng
phạm hạnh
, cùng nhau
thọ trì
không gì che giấu, thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ năm. Do pháp này nên có thể
phát khởi
khả ái, nói rộng
cho đến
không ngăn đi về một hướng.
Lại nữa, có Tỳ-kheo nào, những
sở kiến
có được, về đạo
xuất ly
của các bậc Thánh mà khéo
thông đạt
; hoặc khởi công
thực hành
chúng có
thể đạt
đến chỗ hết khổ. Đối với những
sở kiến
như vậy cùng với các bậc trí đồng
phạm hạnh
, cùng nhau
tu tập
không che giấu những
sở kiến
của mình thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ sáu. Do pháp này nên có thể
phát khởi
khả ái, có thể
phát khởi
tôn trọng
, có thể
phát khởi
khả ý
và có khả năng
dẫn đạo
khả ái,
tôn trọng
,
khả ý
cùng
nhiếp thọ
mọi
hoan hỷ
không trái không ngăn
hành giả
đi về một hướng.”
Qua lời trình bày của
Tôn giả
Xá-lợi-phất trong A-tỳ-đạt-ma Tập Dị Môn Túc luận 15; đây là những gì chính
Tôn giả
đã từng nghe đức
Đạo sư
dạy, về
ý nghĩa
không khác với Sáu pháp hòa kính, tuy trên mặt dụng ngữ là có khác về cách
sử dụng
từ, nhưng nội dung thì giống nhau về việc
tu tập
ba nghiệp
để
trở nên thanh tịnh
từ
vật chất
đến
tinh thần
được
kết hợp
một cách nhuần nhuyễn trong việc
thể hiện
qua cuộc sống tập thể
Tăng đoàn
, tạo nên
an lạc hạnh
phúc trong đoàn kết,
hòa hợp
đưa đến
nếp sống
vô sự
an lạc
trong
giải thoát
cuối cùng
. Đó là những văn bản
chúng tôi
trích ra từ
kinh điển
đại diện
cho
quan điểm
của
Tiểu thừa
về sáu pháp hòa kính cho thấy có sự đồng nhất theo thứ tự của Sáu pháp về
hình thức
kể cả nội dung, tuy có việc sai khác trong cách dụng ngữ của mỗi bản văn, nhưng điều này không
ảnh hưởng
đến nội dung
tư tưởng
. Dưới đây,
chúng tôi
sẽ đưa ra Sáu pháp hòa kính theo
kinh điển
của các nhà
Đại thừa
, nội dung
tư tưởng
và về cả cách thức sắp xếp cùng cách
sử dụng
dụng ngữ nữa.
Theo
Đại Thừa Nghĩa Chương
12 thì
ý nghĩa
của
Lục hòa kính
đồng đưa đến
an lạc
, không tạo nên
phiền não
, khởi lên tạo tác không
trái với
an lạc
nên gọi là hòa; vì lúc
hành giả
thực hành
hòa hợp
đoàn kết trong cuộc sống luôn luôn cần sự
hiện hữu
tác động
của tình cảm lên nếp
sinh hoạt
của
chúng ta
mới mong mang lại tình thân
quý trọng
lẫn nhau. Sự
bền vững
của
hòa hợp
luôn phải được
thể hiện
nơi lòng chí kính, nếu trong
giao thiệp
mà không có sự
tôn trọng
chí kính lẫn nhau thì sự
kết hợp
đó sẽ đưa đến sự tan vỡ. Cho nên
thành công
để đưa đến
an lạc
phải có hòa và kính đi đôi
với nhau
.
Vì vậy
cho nên được gọi là Sáu pháp hòa kính.
Theo
Đại thừa Nghĩa chương
thì:
Một,
thân nghiệp
đồng, có hai: một cùng
xa lìa
tội lỗi
, có nghĩa là
hành giả
tu tập
đồng
xa lìa
sát, đạo, tà dâm…; hai đồng tạo
việc thiện
, nghĩa là
thực hành
tất cả những việc có
liên quan đến
thiện nghiệp
, như lễ bái…
Hai,
khẩu nghiệp
đồng, cũng có hai: một cùng đồng
xa lìa
tội lỗi
, có nghĩa là tất cả đều
xa lìa
nói dối
, hai lưỡi,
ác khẩu
,
thêu dệt
; hai, cùng đồng làm
việc thiện
, nghĩa là cùng làm mọi công
việc thiện
như
tán tụng
, khuyến thiện…
Ba,
ý nghiệp
đồng, cũng có hai loại: một, cùng đồng lìa
tội lỗi
, có nghĩa là cùng nhau lìa khỏi tất cả mọi
ý nghĩ
về nghiệp
phiền não
ngay trong
ý nghĩ
; hai cùng nhau tạo
việc thiện
qua
ý nghĩ
, cùng nhau tu tín, tấn, niệm, định, tuệ tất cả mọi
pháp thiện
.
Bốn, đồng giới, cũng có hai: một, cùng đồng người thô giới như
ngũ giới
,
bát giới
, mười giới…; hai, cùng đồng
trì giới
mà mình đã thọ. Ở đây phân ra làm ba loại giới: một,
nhiếp luật nghi giới
; hai,
nhiếp thiện pháp giới
; ba,
nhiếp chúng sanh giới
.
Năm, đồng
bố thí
, cũng có hai: một, nội thí hòa đồng gồm những vật nhà mình, tự thân dùng để phụng
cấp cho
việc
tôn kính
; hai, ngoại thí hòa đồng, những tư cụ có được ngoài nhà ra. Thí này cũng được phân ra là ba loại: một,
tài thí
hòa đồng; hai,
pháp thí
hòa đồng; ba,
vô úy thí
hòa đồng.
Sáu, đồng kiến, là chỉ có
kiến giải
có được, cũng hai loại: một, trong
thế đế
kiến giải
đồng
nhất không
khác; hai, trong
chân đế
có
kiến giải
đồng
nhất không
khác.
Sự sai khác ở đây chỉ có trên mặt sắp xếp theo thứ tự thì có khác với ba pháp hòa kính sau và trên cách dụng ngữ cũng có khác đối với
kinh điển
Tiểu thừa
.
Tuy nhiên
, về nội dung
ý nghĩa
thì không khác, chỉ
giải thích
sâu rộng
thêm về mặt
ý nghĩa
thôi.
Riêng theo
Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn
phần cuối của quyển hạ thì về mặt
hình thức
, ba pháp dưới đổi lên trên và ba pháp trên đổi xuống dưới, trong cách
sử dụng
dụng ngữ cũng theo đó mà có sự sai khác, nhưng trên mặt
ý nghĩa
thì đồng nhau. Ở đây chỉ có pháp thứ ba
Đồng hành
hòa kính, không những khác nhau về dụng ngữ mà còn khác nhau về
hiện tượng
. Các
bản kinh
văn khác đều lấy quả để nêu lên
ý nghĩa
của pháp hòa kính này, nhưng ở đây lấy nhân để làm tiền đề cho pháp này.
Tuy nhiên
, nếu đi sâu hơn nữa thì giữa nhân và quả không khác nhau trên nghĩa
cứu cánh
, do đó, chúng cũng không
ảnh hưởng
trong việc
tu tập
cho
hành giả
nếu
chúng ta
thực hành
đúng đường. Theo
Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn
thì Sáu pháp hòa kính này theo thứ
tự như
sau:
Một, Đồng giới hòa kính, Bồ-tát
thông đạt
thật tướng
các pháp biết rằng tội
bất khả đắc
, vì muốn
an vị
chúng sanh
đối với lý
thật tướng
nên dùng Giới làm
phương tiện thiện xảo
đồng với tất cả qua việc
thọ trì
các
giới phẩm
mà mình đã thọ, không có nghịch trái và, cũng biết rằng tất cả
chúng sanh
cùng đồng
giới thiện
này, không đoạn, không thường, đời
vị lai
ắt được quả lớn Bồ-đề, Bồ-tát vì kính giới như Phật cho nên nói đồng giới là hòa kính.
Hai, Đồng kiến hòa kính, Bồ-tát
thông đạt
thật tướng
các pháp, đối các
pháp không
được không biết không thấy, vì muốn
an vị
chúng sanh
, đối với các
pháp chánh
kiến làm
phương tiện thiện xảo
hòa đồng với tất cả. Mọi thứ
tri kiến
không trái nghịch và, cũng nên biết rằng
chúng sanh
nhân
tri kiến
này mà
phân biệt
được
chánh kiến
tà kiến
;
tăng tiến
giải mở, tất được
chủng trí
viên minh
. Vì kính
tri kiến
như Phật, cho nên nói đồng kiến là hòa kính.
Ba,
Đồng hành
hòa kính, Bồ-tát
thông đạt
thật tướng
các pháp,
vô niệm
,
vô hành
, vì muốn
an vị
chúng sanh
đối với
thật tướng
chánh hành nên dùng hành làm
phương tiện thiện xảo
đồng với tất cả qua việc
tu tập
các loại
hành, không có nghịch trái và, cũng biết rằng tất cả
chúng sanh
cùng đồng các hành này, không có trái nghịch, cũng nên biết rằng
chúng sanh
đồng các hành này,
dần dần
tích tụ
công đức
, tất cả sẽ
thành Phật
đạo, Bồ-tát vì kính giới như Phật cho nên nói
đồng hành
là hòa kính.
Bốn, Thân từ hòa kính, Bồ-tát trụ vào
vô duyên
đại từ
bình đẳng
, nhờ
tu thân
mình,
căn lực
hiền từ
, có khả năng không
khởi diệt
định, hiện các
oai nghi
, cùng vui với tất cả, cho nên thân cùng với chín đường hòa đồng; cũng nên biết rằng trước được vui
chúng sanh
, tất cả có tánh Phật, đời
vị lai
ắt được thân
kim cương
. Vì kính thân như Phật, cho nên nói thân từ là hòa kính.
Năm, Khẩu từ hòa kính, Bồ-tát trụ vào
vô duyên
đại từ
bình đẳng
, nhờ tu khẩu mình,
căn lực
hiền từ
, có khả năng không
khởi diệt
định, phát ra khắp tất cả mọi thứ âm thinh
ngôn ngữ
, cùng vui với tất cả, cho nên miệng cùng với chín đường hòa đồng; cũng nên biết rằng trước được vui
chúng sanh
, tất cả có tánh Phật, đời
vị lai
ắt được
khẩu nghiệp
vô thượng
. vì kính khẩu như Phật, cho nên nói khẩu từ là hòa kính.
Sáu, Ý từ hòa kính, Bồ-tát tâm
thường trụ
vào
vô duyên từ
tam-muội, nhờ
tu tập
ý,
căn lực
hiền từ
, có khả năng không
khởi diệt
định, hiện các tâm ý, cùng vui với
chúng sanh
, cho nên ý cùng với chín đường hòa đồng; cũng nên biết rằng trước được vui
chúng sanh
, tất cả có tánh Phật, ý tàng
Như Lai
, đời
vị lai
ắt được tâm như
tâm Phật
, vì kính ý như Phật cho nên nói ý từ là hòa kính.
Qua
Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn
, ngoài thứ tự Sáu pháp hòa kính ra,
đặc biệt
Sáu pháp này dành cho các hàng Bồ-tát khi hành Bồ-tát hạnh,
mục đích
là để an vui
chúng sanh
, tức là sáu pháp này
thể hiện
nơi chính
bản thân
các Ngài để làm gương cho
mọi người
tin theo
qua thân giáo cùng chính cuộc sống
của quý
Ngài trong cùng một
cộng đồng
vô duyên từ
là
yếu tố
quan trọng đưa đến
thanh tịnh
ba nghiệp
thân khẩu ý
và khiến mọi
chúng sanh
cũng đồng tội
bất khả đắc
, các
pháp không
được, không biết, không thấy,
vô niệm
,
vô hành
. Đây chính là
pháp môn bất nhị
của Sáu pháp hòa kính dành cho các hàng Bồ-tát. Do vì thuộc tính của đối tượng nên sáu pháp hòa kính theo
Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn
ý nghĩa
chúng
sâu xa
và
vi diệu
hơn nhiều so với Sáu pháp hòa kính dành cho các hàng
tại gia
và
Tiểu thừa
; nhưng
ý nghĩa
sáu pháp hòa kính
cứu cánh
của chúng vẫn đưa
hành giả
đến an vui
giải thoát
.
Tóm lại
, về
ý nghĩa
của pháp
Lục hòa
như phần đầu
chúng tôi
đã trình bày, và theo đó
chúng tôi
đưa ra những
bản kinh
văn thuộc hai hệ Tiểu và
Đại Thừa
để
chúng ta
thấy rõ được những chỗ đồng dị của chúng; nhưng đó chỉ là những đồng dị
tùy thuộc
vào thuộc tính của từng
căn cơ
các loài
hữu tình
mà đức
Đạo sư
đã
phương tiện
dạy cho
chúng ta
về cả hai
phương diện
khế cơ
và khế lý, nên dù có những khác nhau trong dụng ngữ hay
kết hợp
theo thứ lớp không đồng bộ thì việc này cũng nằm trong việc
tùy duyên
của Ngài lúc ra
hóa đạo
mà thôi.
Mục đích
là giảng dạy cho các hàng
đệ tử
của Ngài trong
nếp sống
cộng đồng
, sống thế nào để đem lại an vui,
hạnh phúc
và những
điều kiện
cần phải
nỗ lực
thực hành
những pháp ấy, cùng sống thế nào để không đưa đến oán đối tan rã, đưa đến
đau khổ
lẫn nhau. Một tập thể
Tăng lữ
nếu muốn
duy trì
cuộc sống vô sự trong một
cộng đồng
thì trước hết phải
vô hiệu
hóa
bản ngã
cá nhân
của mỗi người qua việc tự
kính trọng
mình và
kính trọng
mọi người
chung quanh và phát triển
lòng từ
đối với chính mình cùng
mọi người
. Có như vậy mọi sự ái kính mới được phát triển và cuộc sống tập thể mới mong trở nên
an lạc
và
hạnh phúc
.
Qua đó, Pháp
Lục hòa
được đức
Đạo sư
chỉ dạy
cặn kẽ
cho các
đệ tử
của Ngài, từ
tại gia
đến
xuất gia
qua việc tịnh hóa
ba nghiệp
thân – khẩu – ý của mỗi
cá nhân
và những
giải quyết
mọi
ràng buộc
trong
sinh hoạt
hằng ngày
trong từng tập thể qua việc
thể hiện
lòng từ
là
nếp sống
căn bản
trong việc hướng dẫn,
dìu dắt
nhau tiến về
đạo quả
giải thoát
.
Theo A-tỳ-đạt-ma Tập Dị Môn Túc luận 15, Sáu pháp hòa kính này là Sáu pháp khả hỷ và đượcXá-lợi-phất trình bày như sau: “Sao gọi là sáu? là nếu có Tỳ-kheo nào ở chỗcùng người trí đồng, khởi nghiệp thânthì đó gọi là pháp khả hỷ thứ nhất. Do pháp này nên có thể phát ra đáng yêu (khả ái), có thể phát ra sự, có thể phát ra), và cũng có khả năngkhả ái,, vui ý,mọikhông trái, không ngăn, đi về một hướng.Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào ở chỗcùng người trí đồng, khởi nghiệp khẩuthì đó gọi là pháp khả hỷ thứ hai. Do pháp này nên có thểkhả ái, nói rộngkhông ngăn đi về một hướng.Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào ở chỗcùng người trí đồng, khởi nghiệp ýthì đó gọi là pháp khả hỷ thứ ba. Do pháp này nên có thểkhả ái, nói rộngkhông ngăn đi về một hướng.Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào nhờ pháp thu hoạch được những, thì nhữngcó được từ những bát thấp nhấtnhững bát trung; nhữngnày cùng những người trí đồngcùng nhaukhông được phân ra cất giấu, thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ tư. Do pháp này nên có thểkhả ái, nói rộngkhông ngăn đi về một hướng.Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào đãgiới có được, không khuyết, không rỉ, không tạp, không nhơ,thiện,thiện, nhận lấy những lờikhông hủy báng những người trí, đối với những giới như vậy cùng người trí đồng, cùng nhaukhông gì che giấu, thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ năm. Do pháp này nên có thểkhả ái, nói rộngkhông ngăn đi về một hướng.Lại nữa, có Tỳ-kheo nào, nhữngcó được, về đạocủa các bậc Thánh mà khéo; hoặc khởi côngchúng cóđến chỗ hết khổ. Đối với nhữngnhư vậy cùng với các bậc trí đồng, cùng nhaukhông che giấu nhữngcủa mình thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ sáu. Do pháp này nên có thểkhả ái, có thể, có thểvà có khả năngkhả ái,cùngmọikhông trái không ngănđi về một hướng.”Qua lời trình bày củaXá-lợi-phất trong A-tỳ-đạt-ma Tập Dị Môn Túc luận 15; đây là những gì chínhđã từng nghe đứcdạy, vềkhông khác với Sáu pháp hòa kính, tuy trên mặt dụng ngữ là có khác về cáchtừ, nhưng nội dung thì giống nhau về việcđểtừđếnđượcmột cách nhuần nhuyễn trong việcqua cuộc sống tập thể, tạo nênphúc trong đoàn kết,đưa đếnvô sựtrong. Đó là những văn bảntrích ra từchocủavề sáu pháp hòa kính cho thấy có sự đồng nhất theo thứ tự của Sáu pháp vềkể cả nội dung, tuy có việc sai khác trong cách dụng ngữ của mỗi bản văn, nhưng điều này khôngđến nội dung. Dưới đây,sẽ đưa ra Sáu pháp hòa kính theocủa các nhà, nội dungvà về cả cách thức sắp xếp cùng cáchdụng ngữ nữa.Theo12 thìcủađồng đưa đến, không tạo nên, khởi lên tạo tác khôngnên gọi là hòa; vì lúcđoàn kết trong cuộc sống luôn luôn cần sựcủa tình cảm lên nếpcủamới mong mang lại tình thânlẫn nhau. Sựcủaluôn phải đượcnơi lòng chí kính, nếu trongmà không có sựchí kính lẫn nhau thì sựđó sẽ đưa đến sự tan vỡ. Cho nênđể đưa đếnphải có hòa và kính đi đôicho nên được gọi là Sáu pháp hòa kính.Theothì:Một,đồng, có hai: một cùng, có nghĩa làđồngsát, đạo, tà dâm…; hai đồng tạo, nghĩa làtất cả những việc có, như lễ bái…Hai,đồng, cũng có hai: một cùng đồng, có nghĩa là tất cả đều, hai lưỡi,; hai, cùng đồng làm, nghĩa là cùng làm mọi côngnhư, khuyến thiện…Ba,đồng, cũng có hai loại: một, cùng đồng lìa, có nghĩa là cùng nhau lìa khỏi tất cả mọivề nghiệpngay trong; hai cùng nhau tạoqua, cùng nhau tu tín, tấn, niệm, định, tuệ tất cả mọiBốn, đồng giới, cũng có hai: một, cùng đồng người thô giới như, mười giới…; hai, cùng đồngmà mình đã thọ. Ở đây phân ra làm ba loại giới: một,; hai,; ba,Năm, đồng, cũng có hai: một, nội thí hòa đồng gồm những vật nhà mình, tự thân dùng để phụngviệc; hai, ngoại thí hòa đồng, những tư cụ có được ngoài nhà ra. Thí này cũng được phân ra là ba loại: một,hòa đồng; hai,hòa đồng; ba,hòa đồng.Sáu, đồng kiến, là chỉ cócó được, cũng hai loại: một, trongđồngkhác; hai, trongcóđồngkhác.Sự sai khác ở đây chỉ có trên mặt sắp xếp theo thứ tự thì có khác với ba pháp hòa kính sau và trên cách dụng ngữ cũng có khác đối với, về nội dungthì không khác, chỉthêm về mặtthôi.Riêng theophần cuối của quyển hạ thì về mặt, ba pháp dưới đổi lên trên và ba pháp trên đổi xuống dưới, trong cáchdụng ngữ cũng theo đó mà có sự sai khác, nhưng trên mặtthì đồng nhau. Ở đây chỉ có pháp thứ bahòa kính, không những khác nhau về dụng ngữ mà còn khác nhau về. Cácvăn khác đều lấy quả để nêu lêncủa pháp hòa kính này, nhưng ở đây lấy nhân để làm tiền đề cho pháp này., nếu đi sâu hơn nữa thì giữa nhân và quả không khác nhau trên nghĩa, do đó, chúng cũng khôngtrong việcchonếuđúng đường. Theothì Sáu pháp hòa kính này theo thứsau:, Bồ-tátcác pháp biết rằng tội, vì muốnđối với lýnên dùng Giới làmđồng với tất cả qua việccácmà mình đã thọ, không có nghịch trái và, cũng biết rằng tất cảcùng đồngnày, không đoạn, không thường, đờiắt được quả lớn Bồ-đề, Bồ-tát vì kính giới như Phật cho nên nói đồng giới là hòa kính., Bồ-tátcác pháp, đối cácđược không biết không thấy, vì muốn, đối với cáckiến làmhòa đồng với tất cả. Mọi thứkhông trái nghịch và, cũng nên biết rằngnhânnày màđượcgiải mở, tất được. Vì kínhnhư Phật, cho nên nói đồng kiến là hòa kính., Bồ-tátcác pháp,, vì muốnđối vớichánh hành nên dùng hành làmđồng với tất cả qua việchành, không có nghịch trái và, cũng biết rằng tất cảcùng đồng các hành này, không có trái nghịch, cũng nên biết rằngđồng các hành này,, tất cả sẽđạo, Bồ-tát vì kính giới như Phật cho nên nóilà hòa kính., Bồ-tát trụ vào, nhờmình,, có khả năng khôngđịnh, hiện các, cùng vui với tất cả, cho nên thân cùng với chín đường hòa đồng; cũng nên biết rằng trước được vui, tất cả có tánh Phật, đờiắt được thân. Vì kính thân như Phật, cho nên nói thân từ là hòa kính., Bồ-tát trụ vào, nhờ tu khẩu mình,, có khả năng khôngđịnh, phát ra khắp tất cả mọi thứ âm thinh, cùng vui với tất cả, cho nên miệng cùng với chín đường hòa đồng; cũng nên biết rằng trước được vui, tất cả có tánh Phật, đờiắt được. vì kính khẩu như Phật, cho nên nói khẩu từ là hòa kính., Bồ-tát tâmvàotam-muội, nhờý,, có khả năng khôngđịnh, hiện các tâm ý, cùng vui với, cho nên ý cùng với chín đường hòa đồng; cũng nên biết rằng trước được vui, tất cả có tánh Phật, ý tàng, đờiắt được tâm như, vì kính ý như Phật cho nên nói ý từ là hòa kính.Qua, ngoài thứ tự Sáu pháp hòa kính ra,Sáu pháp này dành cho các hàng Bồ-tát khi hành Bồ-tát hạnh,là để an vui, tức là sáu pháp nàynơi chínhcác Ngài để làm gương choqua thân giáo cùng chính cuộc sốngNgài trong cùng mộtlàquan trọng đưa đếnvà khiến mọicũng đồng tội, cácđược, không biết, không thấy,. Đây chính làcủa Sáu pháp hòa kính dành cho các hàng Bồ-tát. Do vì thuộc tính của đối tượng nên sáu pháp hòa kính theochúngvàhơn nhiều so với Sáu pháp hòa kính dành cho các hàngvà; nhưngsáu pháp hòa kínhcủa chúng vẫn đưađến an vui, vềcủa phápnhư phần đầuđã trình bày, và theo đóđưa ra nhữngvăn thuộc hai hệ Tiểu vàđểthấy rõ được những chỗ đồng dị của chúng; nhưng đó chỉ là những đồng dịvào thuộc tính của từngcác loàimà đứcđãdạy chovề cả haivà khế lý, nên dù có những khác nhau trong dụng ngữ haytheo thứ lớp không đồng bộ thì việc này cũng nằm trong việccủa Ngài lúc ramà thôi.là giảng dạy cho các hàngcủa Ngài trong, sống thế nào để đem lại an vui,và nhữngnhững pháp ấy, cùng sống thế nào để không đưa đến oán đối tan rã, đưa đếnlẫn nhau. Một tập thểnếu muốncuộc sống vô sự trong mộtthì trước hết phảihóacủa mỗi người qua việc tựmình vàchung quanh và phát triểnđối với chính mình cùng. Có như vậy mọi sự ái kính mới được phát triển và cuộc sống tập thể mới mong trở nênvàQua đó, Phápđược đứcchỉ dạycho cáccủa Ngài, từđếnqua việc tịnh hóathân – khẩu – ý của mỗivà nhữngmọitrongtrong từng tập thể qua việclàtrong việc hướng dẫn,nhau tiến về