Phần I – TƯTƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC

Phần I – TƯTƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC

I.HỒ CHÍ MINH VÀ NỀN ĐẠO ĐỨC MỚI VIỆT NAM

1.Đạo đức, một trong những vấn để quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng

Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách mạng đã bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức Người không để lại những tác phẩm đạo đức lớn. nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo đức đã nằm trong những bài viết, bài nói ngắn gọn, được diễn đạt rất cô đọng, hàm súc theo phong cách phương Đông, rất quen thuộc với con người Việt Nam. Bản thân Người lại thực hiện trước nhất những tư tưởng ấy, nhiều hơn cả những điều Người đã nói, đã viết về đạo đức Người vừa là một nhà đạo đức học lớn, lại vừa là tấm gương đạo đức trong sáng nhất, tiêu biểu nhất đã được thế giới thừa nhận.

Vì vậy tìm hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không phải chỉ thông qua những tác phẩm của Người về đạo đức, mà quan trọng hơn phải thông qua chính hành vi được thể hiện trong toàn bộ hoạt động thực tiễn của Người, thông qua mẫu mực đạo đức trong sáng mà Người đã để lại cho Đảng, cho dân tộc, cho nhân loại. Sự thống nhất giữa tư tưởng và hành vi, động cơ và hiệu quả, giữa lý luận và thực tiễn đã trở thành một đặc trưng nổi bật của Hồ Chí Minh, đặc trưng này đã làm cho Hồ Chí Minh phân biệt với rất nhiều nhà tư tưởng, nhiều lãnh tụ cách mạng khác từ trước đến nay.

2.Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, đã được hình thành trong trường kỳ lịch sử, đồng thời kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông, những tinh hoa đạo đức của nhân loại; đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của Mác, Ăngghen, Lênin, cũng như những tấm gương đạo đức trong sáng mà các ông đã để lại. Điều này đã được thể hiện trong những dòng viết đầy xúc động của Người sau khi Lênin mất: Lênin là người “đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại và sự khiêm tốn cao độ”. “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không có gì ngăn nổi” l . Đây không phải chỉ là tình cảm của Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam, mà còn là tình cảm của tất cả các dân tộc thuộc địa đối với Lênin vĩ đại.

Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước, nhất là đạo đức Nho giáo. Nếu từ đó lại cho rằng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minhlà đạo đức Nho giáo thì hoàn toàn sai lầm. Những khái niệm, phạm trù đánh dấu những bậc thang nhận thức của loài người. Qua các thời đại lịch sử, những khái niệm, phạm trù đã trở thành tài sản chung của nhân loại, nhưng nội dung đã cớ nhiều thay đổi. Những khái niệm như trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính … đã có trong Nho giáo từ mấy trăm năm trước Công nguyên; dân chủ, tự do. công bằng, bác ái đã xuất hiện từ thời cổ đại Hy Lạp – La Mã. Nhưng trong hai thiên niên kỷ vừa qua, các giai cấp, các dân tộc đã hiểu những khái niệm đó rất khác nhau, thậm chí có những điểm trái ngược nhau. Điều đó là do những lợi ích khác nhau của các giai cấp, các dân tộc khác nhau quy định.

Hồ Chí Minh sử đụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã từng quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời bổ sung những khái niệm, những phạm. trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì vậy mà những giá trị đạo đức mới đã hòa nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm cho mỗi người Việt Nam đều cảm thấy gần gũi Hơn nữa, những giá trị đạo đức truyền thống lại được nâng lên tầm cao mới, làm cho Người thực hiện được việc kết hợp truyền thống với hiện đại. Việc tiếp thu những tinh hoa đạo đức của nhân loại đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên phong phú, đã được đông đảo những người nước ngoài chấp nhận, tìm thấy một Việt Nam trong nhân loại, cũng như nhân loại trong Việt Nam. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại cũng là một đặc trưng nổi bật của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn việt Nam thực hiện một công việc kế thừa có chọn lọc, thâu hóa những giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng, đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.

3.Một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam

Như vậy, Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam. Từ Hồ Chí Minh, nền đạo đức Việt Nam đã mang bản chất mới và đã được Người gọi là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đạo đức mới đã lật ngược lại các kiểu đạo đức cũ của các giai cấp thống trị, áp bức bóc lột nhân dân lao động. Đạo đức mới xóa bỏ những chuẩn mực đạo đức phong kiến vẫn luôn luôn trói buộc nhân dân lao động vào những lễ giáo hủ bại, phục vụ cho chế độ đẳng cấp tôn ty trật tự hết sức hà khắc của giai cấp phong kiến. Đạo đức mới hoàn toàn trái ngược với đạo đức cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ cực đoan của giai cấp tư sản. Nó cũng xa lạ với đạo đức của giai cấp tiểu tư sản, kìm hãm con người trong những lợi ích riêng tủn mủn, cục bộ, hẹp hòi, cũng như trong vòng gia trưởng nhỏ bé. Nó càng xa lạ với đạo đức tôn giáo luôn khuyên con người khắc kỷ, cam chịu, chấp nhận số phận trong chốn trần tục, để hướng về một cuộc sống tốt đẹp hơn sau khi chết ở nơi thiên đàng hay chốn niết bàn. Điều này đã được Hồ Chí Minh nói rõ: “Có người cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời 2 . Người còn nói “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” 3 .

Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh đề xướng và cùng với Đảng dày công xây dựng, bồi đắp là đạo đức mang bản chất của giai cấp công nhân, kết hợp với những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa đạo đức của nhân loại. Nền đạo đức ấy ngày càng phát triển cùng với sự vận động của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trở thành một bộ phận hết sức quan trọng khắc họa bộ mặt của nền văn hóa Việt Nam. Nó đã trở thành vũ khí mạnh mẽ của Đảng và của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân tộc khác trên thế giới.

4.Vị trí đạo đức trong đời sống của con người và xã hội

Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Như Người vẫn thường nói, đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa; người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Bởi lẽ, sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp rất to lớn, khó khăn và nặng nề; con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường dài, không phải là một đại lộ thẳng tắp. Nó đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ, hơn nữa còn của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy phải là công việc thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người trong xã hội ta.

Có phải như vậy là Hồ Chí Minhtheo thuyết chủ nghĩa xã hội đạo đức? Hoàn toàn không phải như vậy. Người không bao giờ đặt hy vọng vào “lòng tốt” của bọn thực dân phong kiến cũng như của các giai cấp bóc lột để kêu gọi lòng thương cảm và sự ban ơn. Người cũng không bao giờ nghĩ rằng chỉ cần mọi người tu nhân tích đức là đất nước sẽ độc lập, dân tộc sẽ được tự do hạnh phúc. Phải bằng cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mới đi tới được mục tiêu đó. Đạo đức là một vũ khí sắc bén phục vụ cho cuộc đấu tranh đó, đúng như quan điểm của Lênin: “Chúng ta nói rằng: đạo đức đó là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” 4 .

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng phải “là đạo đức là văn minh”, thì mới hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Người cũng thường nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc mình và của thời đại. Nếu xét đến cùng thì văn minh tức là trí tuệ, trong đó chủ yếu là sự hiểu biết đúng đắn về chủ nghĩa Mác – Lênin, những tri thức hiện đại của nhân loại, thực tiễn Việt Nam và thế giới, những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, những hiểu biết để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Còn đạo đức chính là những phẩm chất đòi hỏi con người cần phải có để tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, để cống hiến được nhiều nhất cho cuộc đấu tranh đó. Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi vì muốn làm cách mạng thì trước hết con người phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động, với cả dân tộc mình. Cái tâm, cái đức ấy lại phải thể hiện trong các mối quan hệ xã hội hàng ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người chung quanh mình. Phải có tâm, có đức mới giữ được chủ nghĩa Mác – Lênin và đưa được chủ nghĩa Mác – Lênin vào cuộc sống. Con đường Hồ Chí Minh đi đến chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin là một minh chứng rất rõ về điều đó.

Chính vì vậy, cùng với việc giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho mọi người. Tùy theo từng thời kỳ cách mạng, Người đề ra những yêu cầu đạo đức sát hợp để mọi người phấn đấu rèn luyện nhằm hoàn thành nhiệm vụ ngày càng nặng nề, khó khăn, phức tạp hơn, từ đó mà giành thắng lợi càng to lớn hơn cho sự nghiệp cách mạng.

Đường Kách mệnh là cuốn sách bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam đi theo học thuyết Mác – Lênin và con đường của Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, đi theo đường lối cách mạng mới đã được Nguyễn Ái Quốc xác định. Đó cũng là cuốn sách đầu tiên tuyên truyền trực tiếp về chủ nghĩa Mác – Lênin cho lớp thanh niên cách mạng ưu tú nhất thời đó. Nhưng mở đầu cuốn sách lại là bài nói về Tư cách một người cách mệnh. Chắc chắn chúng ta không thể tìm thấy một trường hợp nào truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin giống như vậy. Phải chăng Hồ Chí Minh đã nêu lên một quan điểm lớn: Phải có cái đức để đi đến cái trí .Vì khi đã có cái trí thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi theo.

Quan điểm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, hồng và chuyên phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể có mặt này, thiếu mặt kia. Như Người đã phân tích, người nào có đức mà không có tài thì cũng chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai, nhưng cũng chẳng có ích gì. Ngược lại, nếu có tài mà không có đức, thì cũng chẳng khác gì một anh làm kinh doanh giỏi, đem lại nhiều lãi, nhưng lãng phí, tham ô, ăn cắp của công, thì như vậy chỉ có hại cho dân cho nước, còn sự nghiệp của bản thân thì sớm muộn cũng đổ vỡ. Người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Khi đã thấy sức không vươn lên được thì đối với ai có tài hơn mình, mình sẵn sàng học tập, ủng hộ và nhường bước để họ vượt lên trước. Ý nghĩa “đức là gốc” chính là ở chỗ đó.

5.Phạm vi bao quát của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Những vấn đề đạo đức đã được Hồ Chí Minh xem xét một cách toàn diện:

-Đối với mọi đối tượng – từ công nhân, nông dân đến trí thức, văn nghệ sĩ; từ các cụ phụ lão đến phụ nữ, thanh thiếu niên nhi đồng; từ đồng bào các dân tộc đến đồng bào các tôn giáo, các nhà tu hành… Cùng với việc đề cập đạo đức công dân, Người đặc biệt quan tâm đến đạo đức của cán bộ, đảng viên. Có thể nói đây là nội dung chiếm phần chủ yếu nhất trong tư tưởng đạo đức của Người.

-Trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người – từ đời tư đến đời công, như sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu lãnh đạo, quản lý…

-Trên mọi phạm vi từ hẹp đến rộng – từ gia đình đến xã hội (làng xóm, phố phường, một tập thể, một đơn vị, một tổ chức…), từ giai cấp đến dân tộc, từ các vùng – miền, địa phương đến cả nước, từ quốc gia đến quốc tế.

-Trong cả ba mối quan hệ chủ yếu của mỗi người – đối với mình, đối với người, đối với việc. Đối với người thì có quan hệ giữa cán bộ, đảng viên của Đảng và Nhà nước với dân, quan hệ giữa cấp trên – cấp dưới, v.v…

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Hai mươi bốn năm trên cương vị Chủ tịch nước, Người đã kiên trì giáo dục cán bộ, đảng viên về đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Nếu quyền lực là sức mạnh để giữ vững những thành quả cách mạng, để tổ chức và xây dựng chế độ xã hội mới, để phát triển kinh tế và văn hóa, để biến đất nước từ nghèo nàn, lạc hậu trở thành giàu mạnh, văn minh, thì quyền lực lại có mặt trái của nó là có thể làm tha hóa con người nắm quyền lực, có thể đưa đến những tổn thất lớn cho cách mạng. Người đã nhìn thấy điều này từ rất sớm, không phải chỉ ở trong nước, mà còn ở nhiều nước, kể cả những nước xã hội chủ nghĩa khác. Nhưng vấn đề về đạo đức mà Người đặt ra với cán bộ, đảng viên chính là nhằm ngăn chặn, khắc phục những hiện tượng tha hóa có thể hoặc đã xảy ra, nhất là để chống lại những khuynh hướng sai lệch về quyền lực như quan liêu, cậy thế cậy quyền, lợi dụng quyền lực, lạm dụng quyền lực, say mê quyền lực, tham quyền cố vị, v.v. , những tệ nạn có thể trở thành nguy cơ làm sụp đổ sự nghiệp của một người, thậm chí của cả một Đảng Cộng sản.

Trong bài viết đăng báo Nhân Dân dịp kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng (3-2-1969), Hồ Chí Minh đã tập trung vào vấn đề đạo đức của cán bộ, đảng viên với tiêu đề Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân . Trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc đi xa, trước hết Người nói về Đảng, và vấn đề đạo đức đã được đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” 5 .

Bốn lần nhấn mạnh chữ thật , và thật sự chỉ trong một đoạn ngắn nói về Đảng, chắc chắn Người đã cân nhắc rất nhiều. Thật có nghĩa là đối lập với giả, với dối. Thật sự là đối lập với qua loa, nửa vời, không đến nơi đến chốn. Thực hiện cho được một chữ thật hay thật sự có khi suốt đời chưa chắc đã làm nổi, trong khi cái giả, cái dối, cái nửa vời… lại vẫn thường trở đi trở lại hàng ngày. Điều căn dặn tâm huyết ấy của Người mãi mãi có ý nghĩa đối với việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, đối với công tác xây dựng Đảng, Đảng phải là đạo đức, văn minh mới có thể lãnh đạo cả dân tộc . xây dựng được một xã hội văn minh, đạo đức.

II. NHỮNG PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI MỚI

Trong di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều những ý kiến đánh giá về người, về việc, về tập thể cũng như về cá nhân. Đó là những lời khen ngợi, biểu dương hay phê bình nhắc nhở. Đó là những lời phân tích phải trái, đúng sai, hay dở, hay đó là những lời khuyên nên tránh hay nên làm, cần xây hay cần chống. Bao giờ Người cũng phân biệt mặt tốt với mặt xấu, mặt thiện với mặt ác trong động cơ cũng như trong hành vi của con người, trong mối quan hệ xã hội vô cùng đa dạng, để làm rõ những phẩm chất đạo đức cần phải xây dựng. Người làm công việc ấy rất thường xuyên, gần như một người làm vườn cần mẫn, hàng ngày bắt sâu nhặt cỏ, tỉa lá cắt cành, vun xới cho những mầm cây. Phải chăng bất cứ người Việt Nam nào cũng có thể tìm thấy những vấn đề đạo đức mà Hồ Chí Minh đặt ra rất gần gũi với mình, những phẩm chất cần tu dưỡng, những định hướng để vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ của cuộc sống con người. Đó là những vấn đề đạo đức Người rút ra từ cuộc đời thực của con người và xã hội Việt Nam, khái quát thành tư tưởng, lý luận, đạo đức, từ đó trở lại cải tạo con người, làm biến đổi hiện thực xã hội.

Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức được nêu ra là phù hợp với từng đối tượng, hơn nữa Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ nhất định. Từ đó Người đã khái quát thành những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới. Nói cách khác, đó là những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam.

Dưới đây là bốn phẩm chất chung, cơ bản nhất:

1.Trung với nước, hiếu với dân

Về quan hệ đạo đức thì mối quan hệ của mỗi người với đất nước mình, với nhân dân, dân tộc mình là mối quan hệ lớn nhất.

Về phẩm chất đạo đức thì trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất.

Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào nội dung mới. Trước kia là trung quân, là trung thành với vua; trung thành với vua cũng có nghĩa là trung thành với nước, vì vua với nước là một, vua là nước, nước là nước của vua. Còn hiếu thì chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình là con cái phải hiếu thảo với cha mẹ. Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của đất nước. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, Đảng và Chính phủ là “đày tớ nhân dân chứ không phải “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”, thì quan niệm về nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn so với trước. Có thể nói rất ít lãnh tụ cách mạng đã nói về dân như vậy. Nhưng vấn đề không phải chỉ là nói mà là làm như thế nào, có làm hay không, điều này càng làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước.

Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành. khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị – đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.

Đối với cán bộ, đảng viên, như Hồ Chí Minh đã nói, điều chủ chốt nhất của đạo đức cách mạng là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, là “trung với nước, hiếu với dân”, hơn nữa phải là “tận trung, tận hiếu thì mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đày tớ thật trung thành của nhân dân.

Tư tưởng hiếu với dân không còn dừng lại ở chỗ thương dân với tính chất là đối tượng cần phải dạy dỗ, ban ơn, mà là đối tượng phải phục vụ hết lòng. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, lại phải thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, để nhân dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước, quyền thì hưởng còn trách nhiệm thì phải làm tròn. Có được cái đức ấy thì người cách mạng người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, quý mến, kính trọng, nhất định sẽ tạo ra được sức mạnh to lớn cho cách mạng.

2. Yêu thương con người

Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, cùng với việc thể nghiệm của chính bản thân mình qua hoạt động cách mạng thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.

Tình yêu thương đó là tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Tình yêu thương đó đã được thể hiện ở Hồ Chí Minh bằng ham muốn tột bậc là làm cho nước được độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Nếu không có tình yêu thương con người như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tình yêu thương con người còn được thế hiện trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí, với mọi người bình thường trong quan hệ hàng ngày. Nó đòi hỏi mọi người phải luôn luôn chặt chẽ nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng con người, phải biết cách nâng con người lên, chứ không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những người ở cương vị lãnh đạo, bất cứ ở cấp nào.

Tình yêu thương con người, theo Hồ Chí Minh, còn được thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm, nhưng đã nhận rõ khuyết điểm sai lầm và cố gắng sửa chữa, kể cả đối với những người lầm đường lạc loi đã hối cải kể cả đối với những kẻ thù đã bị thương, bị bắt hoặc đã chịu quy hàng. Chính tình yêu thương đó đã đánh thức những gì tốt đẹp mà Hồ Chí Minh tin rằng trong mỗi người đều có, tuy nhiều ít có khác nhau.

Trong Di chúc , Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đây chính là điều nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người. Đây là tình thương yêu trẽn nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách chân thành, nghiêm túc giữa những người cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp chung. Nó hoàn toàn xa lạ với thái độ dĩ hòa vi quý bao che sai lầm khuyết điểm cho nhau, càng xa lạ với thái độ yêu nên tốt, ghét nên xấu, bè cánh có thể đưa đến những tổn thất lớn cho Đảng, cho cách mạng.

3. Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư

Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mọi người. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề cập phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, từ Đường Kách mệnh cho đến bản Di chúc cuối cùng.

Đối với mọi người, phẩm chất này có hay không, có nhiều hay ít đều được thể hiện qua hoạt động thực tiễn, trong đời công cũng như đời tư, trong sinh hoạt cũng như trong công việc người đó làm, những cương vị người đó đảm nhiệm. Trong cuộc sống, nếu sự dối trá vẫn còn tìm được nhiều chỗ ẩn náu, thì những thói lười biếng, xa phí, bất liêm, bất chính, hủ bại, sa đọa, thu vén lợi ích riêng tư, làm hại lợi ích chung… thì khó che giấu được con mắt của những người bình thường.

Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam. Người đã giữ lại những gì tốt đẹp của quá khứ, lọc bỏ những gì không còn phù hợp và đưa vào những nội dung mới. do sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra.

Mỗi chữ cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đã được Hồ Chí Minh giải thích rất rõ, rất cụ thể, rất dễ hiểu đời với mọi người. Nếu phẩm chất này đã cần thiết đối với con người Việt Nam khi đất nước còn phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược rất tàn bạo do chủ nghĩa thực dân đế quốc gây ra, thì lại càng cần thiết khi đất nước phát triển trong xây dựng hòa bình. Đây không phải chỉ là yêu cầu về đạo đức, mà còn là yêu cầu của chính sự phát triển kinh tế.

Theo Hồ Chí Minh thì:

Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại. không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.

Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to: “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” 6 , không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.

Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham lam”7. “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa.

Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ 8 .

Người đã chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm, như:

” cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư…” 9 .

“Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm).

Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm, là tham vật úy lạo.

Gặp giặc mà rút ra, không dám đánh là tham sinh úy tử” 9 .

Người đã nhắc lại một số ý hay của Khổng, Mạnh:

“Cụ Khổng Tử nói: “Người mà không Liêm, không bằng súc vật”.

Cụ Mạnh Tử nói: “Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy” 10 .

Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn.

Đối với mình – không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều này, sửa đổi điều dở của bản thân mình.

Đối với người dưới – không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà; không dối trá, lừa lọc.

Đối với việc – để công việc lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm: việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước, cho dân.

Về Chí công vô tư , Người nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc”, “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc).

Đối lập với “chí công vô tư” là “dĩ công vi tư” đó là điều mà đạo đức mới đòi hỏi phải chống lại.

Chí công vô tư, về thực chất là nối tiếp Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người giải thích:

“Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư” 11 .

Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Có khi Hồ Chí Minh coi cần kiệm như hai chân của con người, phải đi đôi với nhau. Cần mà không kiệm thì chẳng khác nào “gió vào nhà trống”, “nước đổ vào chiếc thùng không đáy”, “làm chừng nào xào chừng ấy”, rốt cuộc “không lại hoàn không”. Còn kiệm mà không cần thì sản xuất được ít, không đủ dùng, không có tăng thêm, không có phát triển. Có khi Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức của con người, thiếu một đức thì không thành người; cũng như trời có bốn mùa, đất có bốn hướng, thiếu một mùa thì không thành trời,  thiếu một hướng thì không thành đất.

Cần, kiệm, tiêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng, thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính, và có được nhiều tính tốt khác. “Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm.

Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” 12 .

Bồi dưỡng phẩm chất cần kiệm liêm chính, chí công vô tư sẽ làm cho con người vững vàng nước mọi thử thách: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”, và có thể “Trợn mắt coi khinh nghìn lực sĩ, cúi đầu làm ngựa đám nhi đồng”.

Nhưng đây lại là vấn đề rất phức tạp, nói dễ làm khó, và trong cuộc sống vẫn thường hay vi phạm. Bởi vì nó đụng chạm đến nhiều mặt lợi ích cá nhân, tập trung nhất là chức, quyền. danh, lợi, mà nếu không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân thì bất cứ ai cũng có thể sa vào những hành vi vô đạo đức.

4. Tinh thần quốc tế trong sáng

Đó là tinh thẩn đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản đều là anh em”.

Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.

Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội.

Sự đoàn kết ấy là nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.Tinh thần quốc tế ấy vẫn được gọi là chủ nghĩa quốc tế vô sản, hay chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, vô vanh, biệt lập, kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, như thế giới thường nói hiện nay. Tất cả những khuynh hướng lệch lạc ấy có thể dẫn đến chỗ phá vỡ cả một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng đôi đầu, đối địch.

Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc. Không phải đối với bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào cũng thấy được tinh thần quốc tế có hay không, trong sáng hay không trong sáng, nhưng việc giáo dục của Đảng và việc rèn luyện của cá nhân mỗi người về tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ. Trong vấn đề này, đường lối chính trị của Đảng lãnh đạo và những chủ trương, chính sách cụ thể của Nhà nước có ý nghĩa định hướng đúng đắn cho việc bồi dưỡng tinh thần quốc tế ở mỗi người.

III. NHỮNG NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI

Để xây dựng một nền đạo đức mới, Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng, cũng như cho việc rèn luyện của mỗi người:

1.Nói đi đôi với làm, phải nêu gương vê đạo đức

Điều này đã được Hồ Chí Minh nói ngay trong Đường Kách mệnh , khi đề cập tư cách của một người cánh mệnh. Trong suốt cuộc đời mình, Người đã giáo dục mọi người và chính bản thân Người đã thực hiện điều đó một cách nghiêm túc và đầy đủ nhất. Hơn nữa, chúng ta còn thấy Người nói ít nhưng làm nhiều, có những vấn đề đạo đức Người làm mà không nói. Phải đi sâu vào hành vi đạo đức của Người, chúng ta mới khám phá ra được những tầng bản chất sâu xa của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại hiệu quả thiết thực cho chính bản thân mình và có tác dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói một đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại những hậu quả phản tác dụng. “Hãy làm theo tôi nói, đừng làm theo tôi làm”, thói đạo đức giả ấy là đặc trưng đạo đức của các giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử của xã hội loài người, trong mỗi quốc gia dân tộc, nó hoàn toàn xa lạ với đạo đức cách mạng, với nền đạo đức mới mà chúng ta cần xây dựng. Chúng ta phải phấn đấu để làm sao trong xã hội ta không còn những kẻ đạo đức giả, càng không cho phép những kẻ đạo đức giả vẫn đi dạy dỗ người khác về đạo đức Lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chủ nghĩa xã hội một phần quan trọng phụ thuộc vào vấn đề này.

Từ đó, chúng ta cũng thấy rằng không ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại được đặt ra như trong lĩnh vực đạo đức. Trong gia đình thì đó là tấm gương của bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với những người em; trong nhà trường thì đó là tấm gương của thầy cô giáo đối với học sinh; trong tổ chức, tập thể, Đảng, Nhà nước là tấm gương của những người phụ trách, lãnh đạo, của cấp lên đối với cấp dưới, trong xã hội thì đó là tấm gương của người này đối với người khác, những gương “người tốt việc tốt” mà Hồ Chí Minh đã phát hiện để mọi người học tập noi theo. Một trăm bài diễn văn hay không bằng một tấm gương sống, điều mà Hồ Chí Minh nói về Lênin, đã đặt ra cho việc xây dựng đạo đức mới một nguyên tắc rất cơ bản là sự nêu gương về đạo đức. Đó cũng là điều chúng ta thấy ở Hồ Chí Minh – một tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt vời của một cuộc đời trọn vẹn.

Trong xã hội, tấm gương của các thế hệ trước đối với các thế hệ sau là đặc biệt quan trọng. Mỗi thế hệ đều có trách nhiệm của mình, nhưng thế hệ trước bao giờ cũng có trách nhiệm rất nặng nề đối với thế hệ sau trong việc giáo dưỡng, nhất là trong việc bồi dưỡng về đạo đức. Đương nhiên trong cuộc sống không phải bao giờ cũng chỉ diễn ra một chiều ảnh hưởng, tác động như vậy, do đó Hồ Chí Minh cũng đã nói đến việc người già có thể học tập người trẻ để không ngừng hoàn thiện đạo đức của mình.

Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã nêu ra một luận điểm quan trọng: “Trước mặt quần chúng, không phải ta có viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.

Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” 13 . Luận điểm ấy đã khẳng định rất rõ vấn đề nêu gương có tầm quan trọng đặc biệt  trong đời sống đạo đức, nhất là đối với trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.

Tấm gương đạo đức của Bác Hồ là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các thế hệ người Việt Nam mãi mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các anh hùng, chiến sĩ thi đua, những tấm gương của những người tiêu biểu trong từng ngành, từng tập thể, những tấm gương “người tốt việc tốt” rất gần gũi trong đời thường, có ở mọi nơi mọi lúc mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nói: “Từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối, thành sông. Biết bao nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại mới thành biển cả. Một pho tượng hay một lâu đài cũng phải có cái nền rất vững chắc mới đứng vững được. Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu dài mà không chú ý đến cái nền. Như thế chỉ thấy cái ngọn mà quên mất cái gốc.

Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có. Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có” 14 .

Như vậy, những tấm gương đạo đức đã được hiểu theo một nghĩa rộng. Có những tấm gương chung và riêng, lớn và nhỏ, xa và gần. Một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên một cái nền rộng lớn, vững chắc, khi những phẩm chất đạo đức, những chuẩn mực đạo đức đã trở thành hành vi đạo đức ngày càng phổ biến trong toàn xã hội, mà những tấm gương đạo đức của những người tiêu biểu, những người tất việc tốt có ý nghĩa thúc đẩy cho quá trình đó.

2. Xây đi đôi với chống

Muốn xây dựng đạo đức mới, muốn bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cách mạng cho hàng triệu, hàng triệu con người – cán bộ, đảng viên, các công dân trong các giai tầng khác nhau, thì cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết là phải chống những biểu hiện sai trái xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới, những hiện tượng vẫn thường gọi là tệ nạn, tiêu cực, thoái hóa biến chất. Trong đời sống hàng ngày, những hiện tượng tốt – xấu, đúng – sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức vẫn thường đan xen nhau, đối chọi nhau, thông qua hành vi của những con người khác nhau. Hơn nữa những đan xen và đối chọi ấy còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi người. Chính vì vậy việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức hoàn toàn không đơn giản. Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.

Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình đến nhà trường và ngoài xã hội, nhất là trong những tập thể – nơi mà phần lớn thời gian cuộc đời mỗi người gắn bó bằng hoạt động thực tiễn của mình. Những phẩm chất chung nhất, cơ bản nhất lại phải được cụ thể hóa cho sát hợp với từng giai tầng, từng lớp đối tượng khác nhau. Đó là điều Hồ Chí Minh đã làm trong việc giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, cho công nhân, nông dân, phụ nữ, trí thức, văn nghệ sĩ. cho thiếu niên nhi đồng, cho bộ đội, công an, các tướng lĩnh, v.v…

Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người, để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình và như Hồ Chí Minh đã nói, cảm nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là việc làm “sung sướng vẻ vang nhất trên đời này”. Tiếp nhận sự giáo dục đạo đức là vấn đề nhất thiết không thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi đạo đức ở mỗi người còn quan trọng hơn nhiều. Phải chăng sức mạnh của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là khơi dậy sự tự giác của mỗi người nhằm đấu tranh tự loại bỏ cái thấp hèn để vươn tới cái cao đẹp, loại bỏ cái ác; cái vô đạo đức để vươn tới cái thiện, cái đạo đức. Chắc chắn chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản tương lai càng phải như vậy, và đó cũng chính là điều mà Hồ Chí Minh nói về niềm vui của việc trau dồi đạo đức phải trở thành phổ biến trong xã hội .

T rong khi xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức mới, phải đồng thời chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức vẫn thường diễn ra. Điều quan trọng là phải phát hiện sớm, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch lành mạnh về đạo đức. Hơn nữa còn phải thấy trước những gì có thể xẩy ra để đề phòng, ngăn chặn.

Ngay trong thời kỳ 1925 – 1927, khi bồi dưỡng những lớp cán bộ cách mạng đầu tiên theo đường lối cách mạng mới, Nguyễn Ái Quốc đã nhắc nhở mọi người không được hiếu danh, kiêu ngạo, phải ít lòng ham muốn về vật chất. Chỉ hai tháng sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người đã phát hiện thấy nhiều loại lỗi lầm rất nặng nề của nhiều cán bộ, đảng viên: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Đến tháng 3 – 1947, trong thư gửi các đồng chí Bắc Bộ, Người chỉ ra hàng chục thứ khuyết điểm cần phải tẩy sạch, đó là: địa phương chủ nghĩa, bè phái, quân phiệt, quan liêu, hách dịch, hoạnh họe với dân, coi thường cấp trên, lấn áp cấp dưới, hẹp hòi, ham chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy vô kỷ luật – kỷ luật không nghiêm, ích kỷ, hủ hóa, tranh giành địa vị, chỉ lo ăn ngon mặc đẹp, chiếm của công làm của tư, lợi dụng địa vị công tác để buôn bán phát tài v.v. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc , viết tháng 101947 , Người lại vạch ra nhiều khuyết điểm sai lầm cụ thể hơn như bệnh lười biếng, lười học, lười suy nghĩ; bệnh thích người khác tâng bốc, khen ngợi mình; ưa sai khiến người khác, làm thầy người khác; bệnh tham lam, sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi, xoay sở của đồng bào, buôn lậu, bệnh hữu danh vô thực, bệnh cận thị, bệnh ba hoa nói suông, bệnh “cá nhân” với không biết bao nhiêu biểu hiện rất tệ hại. Đến năm 1952, Người đã quy tụ những tệ nạn cần phải chống vào ba loại chính là tham ô, lãng phí, quan liêu. Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù khá nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, phá từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ tội lỗi của những kẻ tham ô, lãng phí, quan liêu cũng nặng như tội lỗi “việt gian, mật thám”.

Phải kiên quyết chống lại những tệ nạn đó, vừa bằng giáo dục, vừa bằng xử phạt với những mức độ nặng nhẹ khác nhau.

Tuy nhiên, trong bài nói về Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí. chông bệnh quan liêu lúc đó, có lẽ đây là lần duy nhất, Người đã trích dẫn khá dài những ý kiến rất quyết liệt của Lênin về vấn đề này: “Cần phải nêu  những đồng chí đã ăn hối lộ ra để cho dư luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi Đảng… Phải lập tức đề nghị một đạo luật để trừng trị những vụ hối lộ (ăn hối lộ, tặng hối lộ, và những cách hối lộ khác), ít nhất cũng phải phạt 10 năm giam cầm và l0 năm khổ sai” 15 . Trước việc Tòa án nhân dân Mạc Tư Khoa xử nhẹ một vụ ăn hối lộ, Lênin không bằng lòng và viết: “Không xử bắn lũ ăn của đút lót, mà xử một cách pha trò, mềm mỏng nhẹ nhàng như vậy, đó là một điều xấu hổ cho những đảng viên cộng sản, cho những người cách mạng” 16 .

Đến năm 1958, Người đã vạch rõ nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, đó là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ tệ nạn. Muốn xây dựng đạo đức mới, chung quy lại là phải chống cho được chủ nghĩa cá nhân. Một bài báo gần cuối cùng mà Người để lại là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân , được công bố vào ngày 3 – 2 – 1969, nhân kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng đã mang ý nghĩa xây phải đi đôi với chống – muốn nâng cao đạo đức cách mạng thì phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

Để xây và chống có kết quả, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi, Hồ Chí Minh đã phát động nhiều phong trào như vậy: Năm 1952, đó là phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí – quan liêu; năm 1963, đó là cuộc vận động “nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế – tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô – lãng phí – quan liêu”, gọi tắt là cuộc vận động “3 xây, 3 chống”. Có phong trào, có cuộc vận động chung cho toàn Đảng, toàn dân; có phong trào, có cuộc vận động riêng cho từng ngành, từng giới. Qua đó lôi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh nhằm xây gì, chống gì rất cụ thể, rõ ràng, thôi thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân, để mọi người phấn đấu tự bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng. Thực tiễn chứng minh, những cuộc vận động đó đã mang lại kết quả rất lớn.

3.Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời

Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đấy cũng là công việc phải làm kiên trì bền bỉ suốt đời, không người nào có thể chủ quan tự mãn. Người thường nhắc lại luận điểm “chính tâm, tu thân…”, của Khổng Tử, từ đó rút ra ý nghĩa tích cực để vận dụng vào việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng của mỗi người. Người cũng thường nêu lại tấm gương của người xưa, mỗi tối đều tự kiểm điểm để bỏ đỗ đen, đỗ trắng vào hai cái lọ, để cứ nhìn vào đó có thể biết mình tốt xấu ra sao. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, đó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, ,vàng càng luyện càng trong” 17 . Do không chú ý điều này, nên: Có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng, song đến khi có ít quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác mà biến thành người có tội với cách mạng. Từ đó, Người đi đến một kết luận khái quát: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Cho nên trong khi ta kiên trì và đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, làm cho văn minh chiến thắng bạo tàn thì đồng thời phải loại trừ những cái xấu xa do chế độ cũ để lại trong xã hội và trong mỗi con người” 18 .

Đó là điều chúng ta vẫn thấy diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Có những người đã phấn đấu gần hết cuộc đời, có nhiều công lao, nhưng cuối đời lại không giữ được tấm lòng trong sáng, nên sự nghiệp đã đổ vỡ. Kết luận của Hồ Chí Minh cũng đúng với sự đổ vỡ của một số Đảng ở cuối thế kỷ XX. Điều này cũng đúng như Lênin trước kia đã nhận định: cái chết về đạo đức nhất định sẽ dẫn tới cái chết về chính trị.

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đã là người thì ai cũng có chỗ hay chỗ dở, chỗ xấu chỗ tất, ai cũng có thiện có ác ở trong bản thân mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục.

Đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như đời công – sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu; trong mọi mối quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến lớn – gia đình, nhà trường, xã hội; từ quan hệ bạn bè, đồng chí, anh em đến quan hệ tập thể, với cấp trên cấp dưới, với Đảng, với nước, với dân, và cả trong các mối quan hệ quốc tế. Trong cuộc sống, mỗi người có nhiều cương vị, nhiều vai trò khác nhau đòi hỏi phải điều chỉnh hành vi của mình, và phẩm chất đạo đức của :mỗi người được thể hiện rất cụ thể, phong phú, đa dạng. Có rèn luyện công phu như vậy, con người mới có được phẩm chất đạo đức tốt đẹp, và những phẩm chất ấy ngày hàng được bồi đắp, nâng cao.

IV.TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ NGHIẸP ĐỔI MỚI HIỆN NAY

Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng bao giờ cũng đặt ra những nhiệm vụ mới, với những khó khăn, thử thách mới. Đội ngũ cách mạng một mặt càng được tôi luyện và trưởng thành để giành những thắng lợi ngày càng to lớn hơn, mặt khác cũng đào thải những kẻ hư là hỏng, thoái hóa, biến chất đã làm tổn hại đến uy tín và thanh danh của Đảng, đến lợi ích của đất nước, của dân. Tiến trình cách mạng Việt Nam suốt mấy chục năm qua đã chứng minh điều đó.

Nếu trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm đã có nhiều khó khăn, thử thách thì trong xây dựng hòa bình không phải chỉ có dễ dàng, thuận lợi. Đã nhiều lần, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều” 19 . Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội là phải xây dựng lại từ quan hệ sản xuất đến lực lượng sản xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng, xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa “nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc” 20 . Đây là sự nghiệp rất to lớn, nặng nề và phức tạp, một cuộc chiến đấu mới mà thắng lợi không thể giành được bằng những thời hạn ngắn.

Theo Hồ Chí Minh, cái khó khăn của cuộc chiến đấu mới không phải chỉ ở tầm vóc và quy mô của sự nghiệp xây dựng, mà còn ở chỗ mỗi người phải khắc phục những yếu kém của mình, chiến thắng “giặc ở trong lòng” mình, giặc nội xâm ở ngay trong tổ chức của mình. Đó là loại giặc “vô hình, vô ảnh”, nhưng rất mạnh. Nó “luôn luôn lẩn lút trong mình ta”, “khó thấy, khó biết”. “Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót” 21 .

Tinh thần đó đã được Người nhấn mạnh trong bản Di chúc để lại cho Đảng, cho dân: Sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh là “một cuộc chiến đấu khổng lồ” để “chống lại những gì đã cũ kỹ; hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”.

C uộc chiến đấu khổng lồ ấy lại diễn ra trong những điều kiện mới với những biến rộng rất to lớn của nước ta và của thế giới. Đường lối đổi mới được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng xác định và được các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX phát triển là nhằm tìm ra mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, tìm ra con đường đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội với những hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp. Chúng ta chấp nhận kinh tế thị trường, nhưng là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta chủ trương hội nhập kinh tế thế giới, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, nhưng giữ vững độc lập tự chủ, giữ vững chủ quyền và tòan vẹn lãnh thổ quốc gia, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước, vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trong khi đó, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ, phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng thế giới lâm vào thoái trào, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và xu thế toàn cầu hóa vẫn đang bị chủ nghĩa tư bản hiện đại chi phối. Đối với nước ta, có nhiều thời cơ và thách thức, vận hội và nguy cơ đang đan xen nhau, đang tác động qua lại hết sức phức tạp.

Phải tranh thủ nắm bắt thời cơ, tận dụng vận hội, vượt qua mọi thử thách, đẩy lùi mọi nguy cơ để đưa đất nước đi lên. Vì vậy, Đảng ta đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải có một sự nỗ lực phi thường. Sự nỗ lực ấy trước hết tập trung vào việc nâng cao hai mặt trí và đức của mỗi người, cũng như nâng cao mặt bằng trí thức của toàn xã hội. Phải có cái trí ngang tầm thời đại và cái đức theo gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta mới thực hiện ước thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta mới đi tới được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Nâng cao trí tuệ trong tình hình mới đòi hỏi Đảng và nhân dân ta tiếp tục đổi mới tư duy, như Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra. Phải hiểu cho đúng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, biết vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết và tư tưởng của các ông, đặc biệt là những vấn đề về chủ nghĩa xã hội vào những điều kiện lịch sử cụ thể hiện nay. Phải hiểu cho đúng thực tiễn Việt Nam và thế giới, những xu thế lớn của thời đại khi nhân loại bước vào thế kỷ XXI, những kiến thức về khoa học – kỹ thuật, công nghệ hiện đại, và đặc biệt là về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn rất mới mẻ đối với chúng ta. Từ đó Đảng ta không ngừng hoàn chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng và bảo vệ đất nước; cán bộ, đảng viên phải quán triệt và lãnh đạo nhân dân biến những đường lối, chủ trương, chính sách ấy thành hiện thực.

Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, đòi hỏi Đảng và nhân dân ta quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, vận dụng các nguyên tắc xây dụng đạo đức mà Người đã nêu ra: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa rất thời sự trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm trong suất thời kỳ quá độ. Như vậy, đạo đức có quan hệ gì với kinh tế?

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn vốn kinh tế. Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời hy sinh chất cách mạng để giành lấy độc lập và tự do là nhằm xóa bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm noi hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người.

Hồ Chí Minh động viên mọi người cần kiệm xây dựng đất nước chính là để dân giàu, nước mạnh. Không lẽ thoát khỏi bóc lột về kinh tế, được no ấm và giàu có, con người lại nhất thiết đi đến chỗ suy thoái về đạo đức, như tình hình đã diễn ra ở nhiều nước tư bản phát triển. Tiếp nối quan điểm của Mác, Lênin về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển mọi mặt của xã hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, đạo đức, con người, phát triển kinh tế là điều kiện thiết yếu, là cơ sở để xây dựng một xã hội văn minh, để phát triển văn hóa, đạo đức con người. Con người có đạo đức, có văn hóa lại là động lực để phát triển kinh tế. Tinh thần này đã được thể hiện trong câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” 22 , đó là con người có đủ đức và tài, phẩm chất và năng lực, và cả hai mặt đó đều không ngừng được bồi đắp, nâng cao. Đây cũng là điểm khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản.

Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa nền kinh tế ấy hội nhập kinh tế thế giới và phổ biến là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, điều đó đương nhiên đặt ra vấn đề phải vừa hợp tác vừa đấu tranh vì lợi ích của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa vì hội. Tình hình đó càng đặt ra nhiều yêu cầu mới về đạo đức rất gay gắt.

Kinh tế thị trường có mặt tích cực là kích thích mọi suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo. Nó đòi hỏi con người phải năng động, nhạy bén trong mọi tình huống; phải có hiệu quả trong mọi hoạt động; dám đối mặt với mọi thách thức, dám đương đầu với mọi rủi ro. Nó không chấp nhận sự chậm chạp lề mề, xa lạ, với thói ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng. Nó hoàn toàn đối lập với lối làm ăn “lãi giả lỗi thật”, “của chùa” tha hồ phung phí. hoang tàn.. .

Tuy nhiên, kinh tế thị trường lại có mặt tiêu cực lai tạo ra khát vọng làm giàu bằng mọi cách, tâm lý chạy theo đồng tiền, lấy đồng tiền làm giá trị cao nhất. Nói kích thích thói ích kỷ, tự tư tự lợi, đặt lợi ích của cá nhâm và gia đình lên trên lợi ích của tập thể và xã hội. Nó dung dưỡng thói dối trá, gian giảo, lừa lọc, loi sống hưởng lạc, sa đọa, lối sống gấp của xã hội tiêu thụ… Màu tiêu cực ấy không chỉ thể hiện trong lĩnh vực kinh tế, mà còn tác động đến tất cả các mặt của đời sống xã hội.

Xây dựng nền đạo đức mới trong tình hình hiện nay đòi hỏi chúng ta phải biết khai thác mặt tích cực, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Vừa hợp tác, vừa đấu tranh với bên ngoài vừa chấp nhận vừa đấu tranh ở bên trong, đó là vấn đề mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đặt ra cho mọi hoạt động chính trị, kinh tế và đạm đức. Và chỉ có làm như vậy, chúng ta mới xây dựng được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước ta vững vàng quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Cuộc chiến đấu mới để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng đã tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao những phẩm chất đạo đức mới trong đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Những tấm gương “người tốt việc tốt” vẫn xuất hiện hàng ngày ở mọi lứa tuổi, ở khắp mọi nơi, nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Thể hiện tiêu biểu nhất, tập trung nhất những phẩm chất đạo đức ấy và tấm gương của những anh hùng chiến sĩ thi đua đã hội tụ trong Đại hội thi đua toàn quốc năm 2000, đã đem tới nhiều bài học bổ ích để xây dựng nền đạo đức Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Lý giải về những thành tựu trong đổi mới không thể tách rời vấn đề này.

Tuy nhiên, đời sống đạo đức của xã hội, bên cạnh mặt tốt đã xuất hiện mặt xấu như những đám mây đen lan rộng dần trên bầu trời trong sáng. Càng lùi xa thời kỳ chiến tranh khốc liệt, công cuộc xây dựng đất nước hòa bình, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống càng làm cho không ít người nghĩ tới hưởng thụ, nghĩ tới định hướng cá nhân chủ nghĩa của bản thân và vợ con mình nhiều hơn là định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước và dân tộc. Khi đi vào kinh tế thị trường, mặt tiêu cực của kinh tế thị trường đã lan tỏa khá nhanh, gây nên nhiều tệ nạn trong đời sống xã hội. Đảng ta đã nhiều lần chỉ ra những tệ nạn đó, đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm chống những tệ nạn đó. Nhưng đến năm 1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã phải thừa nhận nạn tham nhũng và tệ quan liêu đã trở thành một trong bốn nguy cơ lớn đe dọa sự nghiệp đổi mới.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6 – 1996) lại vạch rõ: “Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa ngăn chặn được” 23 , “… còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ của nhân dân… Điều đáng lo ngại là không ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức, sức chiến đấu của một bộ phận tổ chức cơ sở Đảng suy yếu” 24 ; “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên…. sa đọa về đạo đức và lối sống”.

Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII (tháng 2-1999) lại nhận định: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn.

Từ những nhận định trên của Trung ương, từ đời sống đạo đức của Đảng, Nhà nước và xã hội, có thể rút ra một số điểm:

Một là, những tệ nạn tiêu cực xuất hiện trong những năm qua trong một bộ phận không ít cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý là:

+ Tham nhũng;

+ Lãng phí;

+ Quan liêu;

+ Tha hóa, sa đọa về đạo đức, lối sống;

+ Chạy theo địa vị, danh lợi, tranh giành kèn cựa lẫn nhau, mất đoàn kết nội bộ;

+ Dối trá: nói dối, làm dối, báo cáo không trung thực;

+ Lười biếng: lười học, lười nghĩ, lười làm;

+ Suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng ích mạng.

Những tệ nạn ấy đã trở thành nguy cơ “tự diễn biến” từ trong, không thể coi thường.

Nguyên nhân chủ yếu của những tệ nạn đó là do chủ nghĩa cá nhân phát triển.

Hai là, những tệ nạn đã được chỉ ra và đòi hỏi phải khắc phục, nhưng vẫn chưa ngăn chặn và đẩy lùi được; ngược lại, lại có chiều hướng phát triển nghiêm trọng, nhiều tệ nạn đã mang tính tập thể, thâm nhập vào cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị.

Nguyên nhân của tình hình này là do:

+  Cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu rèn luyện về phẩm chất, đạo đức;

+ Tự phê bình, phê bình và sửa chữa khuyết điểm chưa nghiêm túc;

+ Đấu tranh chống các tệ nạn chưa quyết liệt; nói mạnh làm nhẹ, mạnh với tội nhỏ, nhẹ với tội to, nể nang ô dù bao che cho nhau;

+ Nói nhiều làm ít, nói nhưng không làm, nói một đằng làm một nẻo.

Những tệ nạn ấy đã gây nên những bất bình trong nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Chúng ảnh hưởng tiêu cực đến việc xây ông đời sống đạo đức lành mạnh của nhân dân.

Trong các tầng lớp nhân dân đương nhiên không có vấn đề quan liêu, tham nhũng như trong cán bộ, đảng viên, viên chức Nhà nước. Tuy nhiên, công cuộc xây dựng kinh tế, nhất là khi đi vào kinh tế thị trường cũng đã làm xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội. Tình trạng suy thóai về đạo đức công dân là khá phổ biến: buôn gian bán lận, làm hàng giả, trốn lậu thuế, móc ngoặc, hối lộ, muối chuộc cán bộ, ăn cắp tài sản công dân, tài sản xã hội chặt nghĩa, vi phạm pháp luật, làm giàu không chính đáng… đã và đang gây nên những tác hại nghiêm trọng trong đời sống xã hội.

Cuộc sống đang đòi hỏi phải làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo đức của xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song, phải làm đến nơi đến chống phải giành được những hiệu quả thiết thực. Phải khắc phục các nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực; càng phải khắc phục nguyên nhân đã để cho các tệ nạn tiêu cực phát triển. Trong cuộc đấu tranh này, phải lấy việc xây dựng Đảng làm nhiệm vụ then chất, như đã được nêu ra trong nhiều nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay chính là thực hiện nhiệm vụ then chốt đó. Đó cũng là thực hiện những điều căn dặn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại trong Di chúc trước lúc đi xa.

Cuộc sống đang đòi hỏi phải xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang tầm với những yêu cầu của giai đoạt cách mạng mới. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn soi sáng cho Đảng và nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang đó.

Trích từ sách: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.

1.Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t.1, tr.295.

2.Sđd, t.6, tr. 320 – 321.

3.Sđd, t.5, tr. 252.

4.V.I. Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.41, tr. 369.

5.Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t.12, tr. 498.

6,7,8,9. Sđd, t.5, tr. 636, 640, 252.

10.Sđd, t.5, tr.641.

11.Sđd, t.5, tr.641.

12.Sđd, t.5, tr.251.

13.Sđd, t.5, tr.552.

14.Sđd, t.12, tr.549.

15,16.Sđd, t.6, tr.496.

17.Sđd, t.9, tr.293.

18.Sđd, t.12, tr.558.

19.Sđd, t.10, tr.4.

20.Sđd, tr. 17.

21. Sđd, t.7, tr. 36.

22.Sđd, t.10, tr.310.

23.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.64, 67.

24.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.64, 67.

 

Nxb Thanh niên