PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA WEBER TRONG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC (phần 1)

Moriyuki Abukuma

Hoàng Thị Minh Thư dịch

I. Giới thiệu

Nghiên cứu này luận chứng cho một phương pháp luận của Weber về nghiên cứu xã hội học, đối lập với phương pháp luận của Emile Durkheim và Karl Marx. Ba phương pháp luận này có những quan niệm và những ý niệm-giá trị (Wertideen) hoàn toàn khác nhau.

Nghiên cứu này không tùy tiện xử lý ba phương pháp luận này theo một phương cách rất cân đối. Đúng hơn, nghiên cứu này đấu tranh chống lại sự “tự-dối mình” về “sự tổng hợp vài quan điểm ủng hộ” (Weber 1948, 58)[1]. Trước hết, nghiên cứu này xem phương pháp luận của Max Weber như là quan điểm nền tảng của nghiên cứu xã hội học. Với những luận chứng tiếp theo, phương pháp luận của Durkheim và của Marx là để bổ sung thêm và mang tính phủ định, cho dù cả hai đều đạt đến những vấn đề mấu chốt của phương pháp luận. Rõ ràng là, nghiên cứu này thấy những luận chứng thực chứng của Durkheim chỉ ở trong sự quan sát chức năng, và của Marx chỉ trong việc xây dựng kiểu hình lý tưởng. Để làm rõ sự đối lập, nghiên cứu này chú trọng vào những dị biệt giữa Weber và Durkheim (nghĩa chủ quan đối lại nhân cách tập thể, sự sắp đặt trong tư tưởng đối lại những sự kiện xã hội, kiểu hình lý tưởng đối lại kiểu hình trung bình) và giữa Weber và Marx (những hoàn cảnh đối lại với bản chất, tính duy nhất đối lại quy luật phổ biến, ý niệm đối lại lợi ích, đấu tranh thế giới quan đối lại đấu tranh giai cấp). Nhưng trong phân tích sau cùng, nghiên cứu này bác bỏ các quan niệm và các giả định của Durkheim và của Marx nhân danh cho lương tâm và niềm tin.

Nghiên cứu này theo đuổi sứ mệnh của khoa học xã hội theo quan niệm của Weber như sau: “Mục tiêu của chúng tôi là hiểu tính duy nhất đặc trưng của thực tại mà ta đang chuyển động. Một mặt, chúng tôi muốn hiểu những quan hệ và ý nghĩa văn hóa của những sự kiện cá nhân trong những biểu hiện hiện thời của chúng, và mặt khác, hiểu những nguyên nhân của sự tồn tại của chúng về mặt lịch sử bằng cách này chứ không phải bằng cách khác” (1949, 72).

Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của khoa học văn hóa – gồm lịch sử, chính trị, xã hội học – là hiểu “cái lực lịch sử của ý niệm trong sự phát triển của cuộc sống xã hội” (Weber 1949, 54). Để hoàn thành nhiệm vụ này, công việc khoa học xã hội cần phải lấy những quan hệ nhân quả cụ thể giữa các ý niệm-giá trị văn hóa và sự phát triển của cuộc sống xã hội làm thuộc tính.

2. Những cơ sở của nghiên cứu xã hội học

2.1. Tiền giả định và khoa học xã hội

Bắt đầu bằng những luận chứng phương pháp luận, nghiên cứu này xét tuyên bố sau của Weber: “Không một khoa học nào hoàn toàn thoát ly khỏi các tiền giả định, và không một khoa học nào có thể chứng minh giá trị nền tảng của nó với những ai bác bỏ những tiền giả định này” (1946, 153).

Mọi mô tả về một sự kiện thường nghiệm không thể tránh khỏi tiền giả định. Thậm chí một đoạn trích đơn giản từ một tư liệu lịch sử phản ánh tiền giả định về tác giả của tư liệu ấy. Không có một mô tả nào mà không có tiền giả định. Nghiên cứu này bác bỏ giả định rằng “nhận thức về thực tại lịch sử có thể là hoặc nên là một bản sao không có sự tiền giả định về các sự kiện khách quan” (Weber 1949, 92). “Mọi nhận thức về thực tại văn hóa, có thể nói, luôn là sự nhận thức từ điểm nhìn đặc thù” (Weber, 1949, 81). Nghiên cứu này đối đầu với sự tự-dối mình của nhà nghiên cứu chủ trương “không có tiền giả định”, là người “tiếp cận một cách vô thức chủ đề của mình mà anh ta đã lọc ra từ vô vàn vấn để chọn lấy một phần nhỏ nhoi bằng việc nghiên cứu về những gì mà chính nhà nghiên cứu quan tâm” (Weber 1949, 82”.

Tiền giả định không thể được chứng minh bằng phương tiện khoa học; nó có thể “chỉ được lý giải khi quy chiếu đến lập trường cơ bản của nó về đời sống, cái mà ta phải bác bỏ hoặc chấp nhận theo lập trường cơ bản của mình về đời sống” (Weber 1946, 143). Tiền giả định là một niềm tin hay một sự xác tín. Không có lý do gì để chứng minh giá trị hiệu lực phổ quát của nó. Do đó, những luận chứng sau đây về phương pháp luận là trận đấu giữa những quan niệm, những giá trị và những niềm tin khác nhau, mà bất cứ ai nghiên cứu về xã hội học đều tiền giả định như là của chính mình. Không có phương pháp luận nào có giá trị hiệu lực khách quan xét như là phương pháp luận. Sự phân tích dựa trên những tiền giả định, những niềm tin và những ý niệm-giá trị nào chính là vấn đề về phương pháp luận. Tiền giả định về một phương pháp không thể nào là tiền giả định mang giá trị-trung tính. Mỗi phương pháp luận đều tiền giả định ý nghĩa (sinificance) và nghĩa (meaning) của những ý niệm-giá trị nào đó, tức là, những ý định và mục tiêu được đánh giá về giá trị.

2.2. Tính khách quan của nhận thức xã hội học

Từ sự xác tín trên, nghiên cứu này xét tiền giả định thứ nhất rằng có “những chân lý có giá trị hiệu lực một cách khách quan” của nhận thức khoa học xã hội (Weber 1949, 51). Weber nói: “Chúng ta lấy sự tồn tại của một kiểu nhận thức có hiệu lực một cách vô điều kiện trong khoa học xã hội, nghĩa là có một sự sắp xếp trong tư duy về thực tại xã hội thường nghiệm, làm điều kiện tiên quyết” (1949, 63).

Xã hội học của Weber hiểu sự nhận thức xã hội học khách quan như là “sự sắp xếp trong tư duy (denkende)”, có nghĩa là những kiến tạo khái niệm về thực tại thường nghiệm. Sự sắp xếp tư tưởng được kiến tạo dựa theo phạm trù “nghĩa” và sự biểu hiện thường nghiệm của nó (“Evidenz”) (Weber 1968, 5). Weber cho rằng: “Giá trị hiệu lực khách quan của mọi nhận thức thường nghiệm chỉ dựa trên việc sắp xếp thực tại được mang lại dựa theo những phạm trù, và những phạm trù này là chủ quan.

Tuy nhiên việc sắp xếp thực tại trong tư duy chỉ có thể có được từ những ý niệm-giá trị chủ quan nào đó làm động lực cho nhà nghiên cứu. Weber bàn đến các quan hệ giữa những ý niệm-giá trị và những thực tại thường nghiệm như sau: “Những ý niệm-giá trị này, về phần mìny, là có thể phát hiện và phân tích về mặt thường nghiệm như là những yếu tố của hành vi ứng xử có nghĩa của con người, nhưng giá trị hiệu lực của chúng không thể được diễn dịch từ những sự kiện thường nghiệm xét như là những sự kiện thường nghiệm. (1949, 111).

Đúng hơn, tính khách quan của việc sắp xếp trong tư duy dựa trên sự thỏa ứng của các quan hệ giữa những ý niệm-giá trị và thực tại. Tuy nhiên, nhận thức như thế chỉ có nghĩa đối với những ai nắm giữ giá trị. Weber lưu ý đến nét riêng biệt của nhận thức xã hội học: “Những phương tiện sẵn có cho khoa học của chúng ta không cung cấp được gì cho những ai mà chân lý này không có giá trị gì với họ” (1949, 110).

Do đó, chân lý có hiệu lực khách quan của nhận thức thường nghiệm là niềm tin và sự xác tín. Weber khai mở những vấn đề về các môn thường nghiệm: “Theo nghĩa nào đó, có “những chân lý có hiệu lực khách quan” trong những môn học về các hiện tượng xã hội và văn hóa không? Xét vì những biến đổi liên tục và môn học, những phương pháp của môn học, sự trình bày và tính hiệu lực của những khái niệm của môn học thì câu hỏi này là không thể tránh được. Chúng ta không tìm cách đưa ra những giải pháp mà đúng hơn là cố gắng khai mở những vấn đề” (1949, 51).

Như vậy, niềm tin vào những chân lý có hiệu lực khách quan của nhận thức xã hội học là tiền giả định thứ nhất của nghiên cứu này.

2.3. Giới hạn của sự nhận thức khoa học xã hội

Nhận thức xã hội học là nhận thức về “các quan hệ” của thực tại thường nghiệm. Quan năng nhận thức của con người không thể trình bày “bản chất” và “nghĩa khách quan” của thực tại, mà chỉ tri giác “điều kiện và tác động” và “nghĩa chủ quan” về thực tại.[2] Khái niệm hóa xã hội học chỉ kiến tạo nghĩa “thỏa ứng một cách chủ quan” và sự lý giải “hợp lý” về hành động xã hội, chứ không kiến tạo nghĩa “đúng đắn một cách khách quan” hay sự lý giải “đúng thật”. Trong khái niệm ‘nghĩa’, Weber phân biệt các khoa học thường nghiệm với các bộ môn quy phạm: “Dù thế nào đi nữa, nó [‘nghĩa’] cũng không quy chiếu tới một nghĩa ‘đúng đắn’ một cách khách quan hay một nghĩa mà nó ‘đúng thật’ theo nghĩa siêu hình học nào đó. Chính đây là cái phân biệt các khoa học thường nghiệm về hành động, như xã hội học và sử học, với các bộ môn giáo điều trong lĩnh vực đó, như luật học, lôgíc học, đạo đức học và mỹ học, là cái cố gắng xác minh những nghĩa “đúng thật” và nghĩa “hiệu lực” (1968, 4).

Về xã hội học tôn giáo, Weber chú trọng đến những điều kiện và những tác động, chứ không chú trọng đến bản chất: “Bản chất của tôn giáo thậm chí không phải là mối quan tâm của chúng tôi, khi quan tâm đến nó thì nhiệm vụ của chúng tôi là nghiên cứu những điều kiện và những tác động của một kiểu hành động xã hội cá biệt” (1968, 399).

Weber bỏ qua việc nghiên cứu điều tra “bản chất” của thực tại xã hội hay nghĩa “hiện thực” và các mối quan hệ nhân quả “đúng thật”.[3] Đây là một sự khác nhau cơ bản với nghiên cứu điều tra của Marx về “bản chất” của thực tại thường nghiệm. Theo Marx, xã hội là bản chất của con người: “Bản chất tự nhiên của con người chỉ tồn tại cho con người xã hội. Do đó, xã hội là sự thống nhất hoàn hảo trong bản chất của con người với tự nhiên, sự phục hồi thật sự của tự nhiên” (1844, Những bản thảo kinh tế và triết học).

Marx tiền giả định rằng các lực lượng sản xuất vật chất là cơ sở “hiện thực” của “bản chất” người: “Tổng số các lực lượng sản xuất này là cơ sở hiện thực của cái mà các triết gia đã quan niệm như là bản thể và bản chất của con người” (1978, 165).[4]

Marx cố đưa ra giải pháp “hiện thực” về sự đau khổ của con người bằng nhận thức của mình về “bản chất” của thực tại thường nghiệm. Với tư cách là một nhà cộng sản, Marx thuyết phục rằng những người cộng sản “làm cho sự tồn tại của mình hài hòa với bản chất của mình theo một phương cách thực tiễn, bằng một cuộc cách mạng” (1978, 168). Tôi kiên quyết bác bỏ giả định như vậy của Marx về nhận thức khoa học xã hội là nhận thức có thể tri giác bản chất của thực tại xã hội. Nghiên cứu này yêu sách sự giới hạn của quan năng nhận thức của con người, dù không có luận cứ khoa học nào cho yêu sách này.

2.4. Thoát ly khỏi những phán đoán về giá trị

Nghiên cứu này cũng tiền giả định rằng phân tích xã hội học nên thoát ly khỏi những phán đoán về giá trị. Nghiên cứu này yêu sách rằng sự phân tích thoát ly khỏi phán đoán về giá trị là “một đòi hỏi cấp bách của tính trung thực trí tuệ” (Weber 1942, 2).[5] Ta phải ý thức về “sự phân biệt về nguyên tắc (prinzinpielle) giữa nhận thức tồn tại, tức nhận thức về cái “đang là”, với nhận thức quy phạm, tức nhận thức về cái “phải là” (1949, 51). Weber bác bỏ giả định sai lầm rằng nhận thức thường nghiệm có thể dạy cho ta biết tiêu chí của những phán đoán về giá trị. Ông cho rằng: “Ta không thể biết được nghĩa của thế giới từ những kết quả phân tích của nó, nó quá hoàn hảo; đúng hơn nó phải ở vào một cái thế tạo nên bản thân nghĩa này. Cần phải thừa nhận rằng những quan niệm đổi mới về cuộc sống và vũ trụ có thể không bao giờ là những sản phẩm của việc gia tăng tri thức thường nghiệm” (1949, 57).

Nhiệm vụ của khoa học thường nghiệm là cung cấp những chân lý khách quan của nhận thức thường nghiệm, chứ không phải “cung cấp những chuẩn mực và những lý tưởng có tính bắt buộc” (Weber 1949, 57). Những phán đoán-giá trị phần nào là nhiệm vụ và trách nhiệm của một con người hành động. Tiêu chuẩn nền tảng của những phán đoán-giá trị hẳn là một vấn đề về lương tâm và niềm tin, chứ không phải là về nhận thức thường nghiệm.[6] Weber cho rằng: “Về việc liệu người diễn tả những phán đoán-giá trị này nên gắn bó với những tiêu chuẩn cơ bản ấy có là việc thiết thân của mình hay không, thì điều ấy bao gồm ý chí và lương tâm, chứ không bao gồm nhận thức thường nghiệm. Một khoa học thường nghiệm không nói ai đó phải làm  gì” (1949, 54).

Như vậy, nghiên cứu này bác bỏ những phương pháp luận phán đoán-giá trị của Durkheim và Marx. Durkheim bàn tới điều gì là tốt và điều gì là xấu cho xã hội, và tiêu chuẩn nào nên được sử dụng cho phán đoán về một xã hội lành mạnh hay những xã hội bệnh lý. Ông minh nhiên bác bỏ khoa học nào không thể “dạy cho ta biết mục đích nào cần được theo đuổi” (1938, 47). Ông cố gắng đưa ra “cái mục đích tối hậu” của những sự kiện xã hội “để xác định cái gì không đáng muốn mà xác định cái gì đáng muốn” (1938, 47). Phương pháp luận của Marx ấn định quá đáng cái gì phải tồn tại và hiệu lệnh sự đấu tranh cho lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Marx tuyên bố: “Đối với chúng tôi, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái phải được thiết lập, cũng không phải là một lý tưởng mà hiện thực sẽ phải điều chỉnh chính nó. Chúng tôi gọi chủ nghĩa cộng sản là phong trào hiện thực, và phong trào này xóa bỏ cái tình trạng hiện thời” (1978, 162).

Đây “không còn là một vấn đề về biện pháp giải quyết thực tại thường nghiệm hoàn toàn mang tính lý thuyết với khía cạnh những giá trị mà là những phán đoán-giá trị” (Weber 1949, 98). Marx “pha trộn” một đòi hỏi đạo đức” với “một cách nhìn trừu tượng được rút ra từ quá trình thường nghiệm” (Weber, 1949, 95). Cả Durkheim và Marx đều khẳng định rằng những phán đoán-giá trị là vấn đề của lý tính và nhận thức thường nghiệm, chứ không phải là vấn đề về niềm tin và lương tâm của một cá nhân riêng lẻ. Thuyết duy trí này về những phán đoán-giá trị là đối tượng mà nghiên cứu này phải nỗ lực bác bỏ.

2.5. Những phán đoán-giá trị và những quan hệ-giá trị

Tuy nhiên, yêu sách nghiên cứu phải thoát ly khỏi những phán đoán về giá trị không có nghĩa là những quan hệ-giá trị (Wertbeziechungen) phải bị gạt ra khỏi phân tích khoa học.[7] Ý nghĩa của xã hội văn hóa bắt nguồn từ những quan hệ-giá trị cụ thể của nó. “Sự sắp xếp trong tư duy” về thực tại thường nghiệm sao cho có nghĩa chỉ có thể có được trong quan hệ với những ý niệm-giá trị của nó. Nếu không quan hệ với một ý niệm-giá trị có ý nghĩa, thì một mô tả chi tiết về những sự kiện thường nghiệm không tạo ra nghĩa. Ta phải chọn lấy những sự kiện có ý nghĩa được quan hệ với những ý niệm-giá trị để tạo ra trật tự của thực tại thường nghiệm. Weber cho rằng sự nhận thức có nghĩa đến từ những ý niệm-giá trị chủ quan của người nghiên cứu điều tra: “Nếu không có những ý niệm-giá trị chủ quan của người nghiên cứu điều tra, ắt sẽ không có nguyên tắc lựa chọn vấn đề, không có nhận thức có nghĩa về thực tại cụ thể” (1949, 82).

Một sự lựa chọn những sự kiện xã hội được định hướng về giá trị; mỗi sự lựa chọn được tiến hành dựa theo ý niệm-giá trị riêng của nhà nghiên cứu. Weber cho rằng giả định về những sự kiện xã hội xét như là sự kiện xã hội là sự tự-dối mình: “Nếu quan niệm rằng những lập trường này [những giá trị văn hóa] có thể được dẫn xuất từ chính những sự kiện liên tục xảy ra, đó là vì sự tự-dối mình ngây thơ của nhà chuyên môn, là người không ý thức rằng đó là vì những ý niệm-giá trị” (1949, 82).

Do đó, nghiên cứu này bác bỏ tiền giả định của Durkheim rằng có “những sự kiện xã hội như là những sự vật”, và những sự kiện này “tồn tại độc lập ở bên ngoài ý thức cá nhân” (Durkheim 1938, 30).

Các yêu sách về sự phân tích thoát ly khỏi phán đoán giá trị, và mặt khác, về sự lựa chọn các sự kiện thường nghiệm dựa theo những ý niệm-giá trị riêng, bộc lộ không chỉ mâu thuẫn mà là sự căng thẳng không thể tránh được giữa sự nhận thức thường nghiệm và lòng tin vào những giá trị. Xin lặp lại, nghiên cứu này không đưa ra giải pháp, mà chỉ cố gắng tuyên bố công khai những vấn đề của những khoa học xã hội.

2.6. Một phương pháp cá nhân luận

Những yêu sách trên, tuy nhiên, cũng tiền giả định giá trị khách quan của nhân cách cá nhân, là cái tạo ra những phán đoán-giá trị và đưa ra những quyết định về hành động xã hội dựa theo lương tâm và lòng tin của riêng nó. Weber nói: “Chúng tôi coi là có giá trị khách quan những yếu tố nội tâm nhất này của nhân cách, những phán đoán về giá trị cao nhất và cơ bản nhất cái quyết định hành vi của ta và mang lại nghĩa và ý nghĩa cho cuộc sống của ta (1949, 55).

Yêu sách này đối lập với giả định của Durkheim rằng “lương tâm tập thể” tạo ra những phán đoán-giá trị và đưa ra những quyết định về hành động xã hội thay vì một lương tâm cá nhân. Định nghĩa lương tâm tập thể như là “toàn bộ những tương tự xã hội”, Durkheim thấy rằng lương tâm tập thể thực hiện chức năng buộc những thành viên của một xã hội phải tuân theo “những tương tự” của nó (1933, 80). Ông nói: “Ngay khi những trạng thái trái ngược của lương tâm tự làm suy yếu nhau, những trạng thái đồng nhất của lương tâm, trong trao đổi, lại bắt buộc tuân theo trạng thái lương tâm khác. Nó có thể áp đặt chính nó đối với chúng ta (1933, 99).

Nghiên cứu này đối lập hẳn với giả định như thế của Durkheim về lương tâm tập thể. Trách nhiệm của hành động xã hội là của một cá nhân bởi vì cá nhân ấy tạo ra phán đoán-giá trị và hành động bằng ý chí riêng của mình. Nếu một người đã hành động vượt quá mức quyết định của mình, như một người tàn phế về mặt tinh thần chẳng hạn, thì anh ta không thể chịu trách nhiệm về hành động của mình bởi vì đó không phải là quyết định của anh ta. Trách nhiệm của phán đoán-giá trị và của hành động tiền giả định ý chí và tự do của cá nhân, chứ không phải của nhân cách tập thể.

Con người không phải chỉ là những động vật xã hội hành xử theo tập thể và theo chức năng và bị ngự trị bởi những quy luật về nhu cầu và lợi ích, mà còn là những cá nhân văn hóa hành động theo những ý niệm-giá trị và những điều có nghĩa (meanings) của mình bằng ý chí và lòng tin của chính mình. Weber tuyên bố: “Chúng ta là những sinh vật văn hóa, được phú cho năng lực và ý chí để đưa ra quan điểm có cân nhắc về thế giới và làm cho nó thêm phần ý nghĩa” (1949, 81).

Như vậy, cá nhân là chìa khóa thứ nhất của phương pháp luận của Weber: “Xã hội học lý giải xem xét cá nhân và hành động của cá nhân như là đơn vị cơ bản” (1946, 55).[8]

2.7. Xã hội học về sự hiểu

Sự hiểu là chìa khóa thứ hai của phương pháp luận của Weber, nghĩa là, “sự hiểu bằng lý giải về hành động xã hội và do đó bằng một sự giải thích nhân quả về quá trình và những hậu quả của nó” (1968, 4). Trong hệ thuật ngữ của Weber, sự hiểu hình thành từ sự sắp đặt trong tư duy về thực tại thường nghiệm dựa theo những phạm trù về nghĩa.[9] Nếu không có phạm trù nghĩa, thì sẽ không có sự hiểu (Weber 1982, 180). Phạm trù nghĩa bao gồm sơ đồ phương tiện-mục đích. Weber nói: “Cái gì là khả niệm hay có thể hiểu được về nó [nghĩa] do đó là quan hệ của nó với hành động con người trong vai trò hoặc là phương tiện hoặc là mục đích. Chỉ trong quan hệ với những phạm trù như vậy, ta mới có thể hiểu các đối tượng thuộc loại này” (1968; 7).

Theo chức năng và cấu trúc lôgíc của sơ đồ phương tiện-mục đích thì một hành động xã hội có thể có quan hệ với nghĩa của nó một cách khách quan (Weber 1982, 185; 429). Weber nói: “Vấn đề về sự thích đáng của phương tiện cho việc đạt được một mục đích đã cho là chấp nhận được một cách không thể hoài nghi đối với sự phân tích khoa học” (1949, 52).

Nghĩa của hành động xã hội là của một cá nhân, điều đó có nghĩa nó mang tính chủ quan. Nghĩa chủ quan “chỉ tồn tại như là hành động của một hay nhiều con người cá thể” (Weber 1968, 13). Sự hiểu trong xã hội học luôn là một sự hiểu từ những điểm nhìn chủ quan cá biệt về nghĩa (Weber 1982, 181). Weber có bàn đến điểm nhìn của mình về nghĩa chủ quan đối với xã hội học tôn giáo: “Những quá trình diễn biến bên ngoài của hành động tôn giáo khác nhau đến nỗi một sự hiểu về hành động này chỉ có thể được thành tựu từ điểm nhìn của những kinh nghiệm, những ý niệm, và những mục đích chủ quan của những cá nhân có liên quan tới – tóm lại, từ điểm nhìn về “nghĩa” của hành động tôn giáo” (1968, 399).

Tuy nhiên, sự hiểu về nghĩa đang tồn tại chủ quan có giới hạn của nó, đó là, “đặc điểm tản mạn và có tính giả thuyết hơn của những kết quả của nó” (Weber 1968, 15). Sự lý giải tùy tiện của nghĩa chủ quan đều là nguy hiểm. Để khách quan, trước hết, ta cần gắn nghĩa với hành động xã hội một cách thỏa ứng, và không cần tách rời ra chỉ những hoàn cảnh tâm lý hay những hoàn cảnh vật chất với những quan hệ (Weber 1982, 429). Thứ hai, ta cần so sánh những mối quan hệ với “nhiều nhất có thể được những hành động xã hội tương ứng trong lịch sử hay trong hiện nay (Weber 1968, 10). Weber bàn tới điểm này như sau: “Sự kiểm chứng về việc lý giải chủ quan bằng cách so sánh với quá trình diễn biến cụ thể của những sự kiện, như trong trường hợp của tất cả các giả thuyết, là không thể thiếu được” (1968, 10).

Thứ ba, ta cần lý giải nghĩa từ “bức tranh tổng thể” về bối cảnh văn hóa (Weber 1946, 294). Vì những mục đích sơ bộ này của sự so sánh và sự thấu hiểu, những quan sát tập thể và chức năng về hành động xã hội có thể có ích và thậm chí là không thể thiếu được. Trước khi đi đến phân tích kiểu hình lý tưởng về nghĩa chủ quan, nghiên cứu này cần phải bàn tới sự quan sát chức năng-tập thể.

3. Những quan sát chức năng

3.1. Định nghĩa và ý nghĩa

Một quan sát chức năng được dựa trên tiền giả định rằng các hiện tượng xã hội tương ứng với “những chức năng” và “những nhu cầu” của cơ thể xã hội. Những quan sát chức năng được Durkheim chứng minh khá rõ ràng. Ông định nghĩa thuật ngữ chức năng như sau: “Chức năng diễn tả mối quan hệ hiện tồn giữa những sự vận động [xã hội] này với những nhu cầu tương ứng của cơ thể” (1933, 49). Quan sát chức năng cũng tiền giả định xã hội như là nhân cách tập thể có một ý chí và một mục đích, “một tổng thể siêu-thường nghiệm được điều hành bởi những chuẩn mực” (Weber 1949, 111). Durkheim giải thích rõ hơn: “Chúng tôi sử dụng một cách chính xác từ “chức năng”, hơn là dùng từ “mục đích” hay “ý định,” bởi vì những hiện tượng xã hội nói chung không tồn tại cho những kết quả có ích mà họ tạo ra. Chúng tôi phải xác định liệu có một sự tương ứng nào giữa những sự kiện đang xét với những nhu cầu chung của cơ thể xã hội (1938, 95).

Những quan sát chức năng được dựa vào những kiểu hình trung bình của hành động xã hội, là kiểu hình tiền giả định tính cố kết và tính đồng phục của hành động quần chúng như là sự tương ứng với những bộ phận nguyên tử của tổng thể hữu cơ. Sự kiện thường nhật ít khi xảy ra của một kiểu hình cá biệt và ngoại lệ của hành động xã hội bị loại trừ hay bị bỏ qua vì lợi ích của kiểu hình trung bình của hành động đám đông. Một trường hợp ngoại lệ được xem như sự thiếu đi kiểu hình trung bình của hành động xã hội. Sự quan sát chức năng với những khái niệm tập thể và những kiểu hình trung bình của nó giữ vai trò như là những mục đích sơ bộ và có tính chất trình bày cho xã hội học về sự hiểu. Weber giải thích ý nghĩa của quan sát chức năng như sau: “Trước hết, khung quy chiếu chức năng này thuận lợi cho những mục đích của sự minh họa thực tiễn và cho sự định hướng tạm thời. Ở phương diện này, nó không chỉ có ích mà còn tuyệt đối cần thiết. Thứ hai, trong những trường hợp nào đó đây là phương cách sẵn có duy nhất để xác định đúng những quá trình của hành động xã hội, điều quan trọng là phải hiểu để giải thích một hiện tượng đã cho. (1968, 15).

Quan sát chức năng là bước đầu cố gắng hiểu cho có nghĩa về thực tại thường nghiệm.

3.2. Sự nguy hiểm của phân tích chức năng

Tuy nhiên, nếu một phân tích chức năng được bao hàm trong những phán đoán-giá trị, nó trở nên nguy hiểm cho những chân lý khách quan về thực tại thường nghiệm. Weber chỉ ra sự nguy hiểm của phân tích chức năng như sau: “Nếu giá trị nhận thức [chức năng] của nó được đánh giá quá cao và những khái niệm của nó được cụ thể hóa một cách không chính đáng, thì nó có thể rất nguy hiểm” (1968, 15).

Phân tích chức năng của Durkheim được bao hàm trong những phán đoán-giá trị và vượt quá lĩnh vực của bộ môn thường nghiệm. Ông đã đánh giá quá cao sự phân tích, tuyên bố rằng “mọi phương diện của một xã hội – những thể chế, những vai trò, những chuẩn mực, v.v… – phải giữ vai trò là một mục đích và tất cả những phương diện ấy là không thể thiếu được cho sự tồn tại lâu dài của xã hội” (1938, 17). Durkheim tuyên bố rằng tiêu chuẩn của tư cách đạo đức phải bắt nguồn từ những sự kiện xã hội: “Ý niệm của ta về đạo đức phải được rút ra từ sự biểu hiện quan sát được của những quy tắc đang vận hành dưới mắt ta, những quy tắc tái tạo ra chúng trong thể thức có hệ thống” (1938, 23).

Với mục đích này, Durkheim đặt ra tiêu chuẩn của những phán đoán-giá trị từ điểm nhìn của quy định y học: “Với những xã hội cũng như với những cá nhân, sức khỏe là tốt và đáng mong muốn; bệnh tật, trái lại, là xấu và phải được tránh” (1938, 49).

Đến lượt mình, ông lý giải rằng những kiểu hành động xã hội trung bình là bình thường và khỏe mạnh; những kiểu hành động xã hội khác thường là bệnh lý và bệnh tật: “Kiểu bình thường sáp nhập với những kiểu trung bình, và mọi sự lệch lạc với tiêu chuẩn về sức khỏe là một hiện tượng bệnh tật” (1938, 56).

Vì thế, Durkheim cố gắng gán một nội dung bản thể thường nghiệm cho chuẩn mực đạo đức. Ông bác bỏ quy luật luân lý tiên nghiệm, và thay vào đó, giả định rằng những quy luật luân lý là có thể quan sát được trong các sự kiện xã hội. Weber phản đối giả định như vậy của Durkheim: “Thái độ này [khoa học đạo đức với những cơ sở thường nghiệm] tìm cách tước bỏ những chuẩn mực đạo đức của đặc tính hình thức [siêu nghiệm] của chúng và qua sự sáp nhập toàn bộ những giá trị văn hóa vào lĩnh vực đạo đức cố gắng gán một nội dung bản thể [thường nghiệm] cho những chuẩn mực đạo đức” (1949, 52).

Nỗ lực của Durkheim về những phán đoán-giá trị trở thành không chỉ ra khỏi chân lý khoa học, mà còn bác bỏ giá trị khách quan của một cá nhân. Ông bác bỏ giá trị của trách nhiệm cá nhân về những phán đoán và những hành động nhân danh nhân cách tập thể và tiêu chí xã hội của những phán đoán-giá trị. Nghiên cứu này phản đối những giả định có tính tập thể như vậy. Những nghiên cứu xã hội học phải tránh cạm bẫy này.

3.3. Giới hạn của quan sát chức năng

Sau cùng, những quan sát chức năng “chỉ là sự khởi đầu của phân tích xã hội học” (Weber 1968, 15). Bằng sự phân tích chức năng, ta “chỉ có thể quan sát những quan hệ chức năng có liên quan và sự khái quát hóa trên cơ sở những quan sát” (Weber 1968, 15). Tuy nhiên, quan sát chức năng không thể phân tích “ý nghĩa văn hóa và những quan hệ nhân quả của nó” bởi vì ý nghĩa văn hóa không thể được suy luận từ tính đồng phục và tính chung của những luật lệ và những chức năng xã hội học (Weber 1949, 75). Chỉ có phân tích kiểu hình lý tưởng là có thể hoàn thành nhiệm vụ này, vượt “khỏi việc chứng minh đơn thuần những quan hệ chức năng và những tính đồng phục” (Weber 1968, 15).

(còn tiếp)

Hoàng Thị Minh Thư dịch

[1] Weber tuyên bố:  “Archiv [Archives] sẽ không ngừng đấu tranh chống lại sự tự-dối mình nghiêm trọng đang khẳng định rằng nhờ sự tổng hợp một số quan điểm ủng hộ là ta có thể đạt được những chuẩn mực thực tiễn của tính hiệu lực khoa học. Việc đấu tranh này là cần thiết bởi lẽ, vì sự tự-dối mình như thế nhằm che đậy những tiêu chuẩn riêng của nó về giá trị bằng những thuật ngữ thuyết tương đối, nó tỏ ta nguy hiểm đối với sự tự do nghiên cứu hơn so với niềm tin ngây thơ trước đây về những sự ngang bằng nhau trong tính có thể chứng minh khoa học về những giáo điều của chúng” (1949, 58).

[2] Nghiên cứu này dựa trên nhận thức luận của Kant. Kant đã phát hiện và trình bày giới hạn của quan năng nhận thức của con người. Theo Kant, trực quan cảm tính của con người không có một sự tri giác nào về phẩm tính bên ngoài, không biến đổi và siêu nghiệm của đối tượng. Trực quan cảm tính là biểu tượng đa dạng và mang tính chủ quan về đối tượng, chứ không phải là tri giác về cái bản chất.

[3] Durkheim cũng bỏ qua sự nghiên cứu về cái bản chất: “nó [khoa học] không thể nào nhằm đến một phát biểu về bản chất của thực tại (1938, 42).

[4] Đối với Marx, lực lượng vật chất của sản xuất “ luôn luôn dựa vào cơ sở hiện thực của lịch sử; nó không giải thích thực tiễn từ tư tưởng mà giải thích sự hình thành của tư tưởng từ thực tiễn vật chất (1978, 164)

[5] Soren Kierkegaard viết ra tư tưởng của ông về sự phán đoán về hành động của người khác: “Kinh Thánh dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán” [Matthew 7:1]. Lời này được diễn tả theo hình thức một sự cảnh báo, một sự khuyên răn, nhưng đồng thời đó là một sự bất khả thi. Người này không thể xét đoán người kia về mặt đạo đức, bởi lẽ anh ta không thể hiểu mình về mặt đạo đức, bởi lẽ anh ta không thể hiểu mình ngoại trừ như là sự khả thi. Do đó, khi có ai cố gắng xét đoán người khác, thì sự diễn tả cho sự bất lực của mình đó là anh ta chỉ đơn thuần xét đoán chính mình” (Concluding Unscientific Postscript, 1846).

[6] Bộ môn mang tính quy phạm, nhất là đạo đức học, chú trọng đến những gì mà ta “phải làm’ mà không xét đến “cái là gì” của tập quán, truyền thống, và quy luật của thế giới thường nghiệm. Nghiên cứu này xuất phát từ tiền giả định của Kant rằng quy luật luân lý về cái “phải là” là quy luật tiên nghiệm (siêu nghiệm), chứ không phải là những sự kiện xã hội theo nghĩa của Durkheim, hay lôgíc của cấu trúc vật chất theo nghĩa của Marx. Khoa học xã hội không thể chứng minh hay bác bỏ giá trị hiệu lực có tính chuẩn mực của Bài giảng trên núi.

[7] Weber cũng phân biệt phân tích thoát ly khỏi phán đoán-giá trị với sự bàn luận học thuật về việc phán đoán-giá trị: “Ta không chắc chắn rằng những phán đoán-giá trị phải được rút ra khỏi sự bàn luận khoa học đơn thuần nói chung, vì trong phân tích sau, chúng dựa trên những lý tưởng nào đó và do đó là mang tính chủ quan từ căn nguyên. (1949, 52).

[8] Stephen Kalberg gọi quan điểm của Weber là “phương pháp luận quy về cá nhân”, hay “phương pháp cá nhân luận” (methodological individualism) Kalberg đối lập phương pháp quy về cá nhân của Weber với phương pháp quy về tập thể của Durkheim: “Cá nhân hành động, theo Weber, chứ không phải những cơ thể xã hội hay tập thể luận (collectivism). Không bao giờ thực tại xã hội có thể được giải thích một cách thích đáng nếu những con người được xem như là chỉ đơn thuần đáp ứng cho những quy luật khoa học, những sự kiện xã hội của Durkheim, những lực tiến hóa, hay cái được cho là cần thiết cho các xã hội để thực hiện những chức năng nào đó” (tr. 25). Tuy nhiên, ta nên lưu ý rằng phương pháp của Weber không xem cá nhân luận (individualism) là một hệ thống những giá trị. Weber nói: “Sẽ là hết sức sai lầm khi nghĩ rằng một phương pháp cá nhân luận nên bao hàm rằng một hệ thống cá nhân luận về các giá trị là gì theo bất cứ nghĩa gì có thể quan niệm được” (1968, 18).

[9] Thuật ngữ “hiểu” của Weber cũng dựa trên nhận thức luận của Kant, trong đó thuật ngữ này quy chiếu đến kết quả của việc suy tưởng từ sự nối kết giữa những khái niện và những trực quan cảm tính. Kant nói: “Những tư tưởng không có nội dung đều trống rỗng, những trực quan không có khái niệm là mù quáng” tr. 93).

nguon : doxa.com.vn