PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG: Nghiên cứu khoa học trong quản trị kinh doanh

1.

Khái niệm

Nghiên cứu khoa học là một cách thức con người tìm hiểu sự
việc một cách có hệ thống. Trong thế giới ngày nay, có hai cách để hiểu biết một
sự việc: (1) Chấp nhận (

agreement reality

) là
cách thức con người hiểu biết sự việt thông qua việc thừa nhận các nghiên cứu
hay kinh nghiệm của người khác; và (2) Nghiên cứu (

experiential
reality

) là cách thức con người tìm hiểu các nghiên cứu hay kinh nghiệm
của chính mình.

Chấp nhận là nền tảng của hầu hết các kiến thức mà chúng ta
có được, bởi vì chúng ta không thể hiểu biết được

mọi

sự việc bằng những nghiên cứu, khám phá của chính mình. Tuy nhiên, chúng ta có
thể trực tiếp thực hiện các nghiên cứu để hiểu biết sự việc. Hay nói cách khác,
kiến thức là

dạng

sản phẩm có thể

nhận

được thông qua chấp nhận hay nghiên cứu.

Khoa học cho phép chúng ta phương thức để tiếp cận với cả
hai cách hiểu biết sự việc trên đây, chấp nhận và nghiên cứu, để hiểu biết sự
việc mà chúng ta

cần

biết. Khoa học thiết lập
những tiêu chuẩn cho việc chấp nhận cũng như cho việc thực hiện các nghiên cứu.

2.

Các dạng nghiên cứu khoa học

Nghiên cứu khoa học có thể chia làm hai dạng cơ bản như sau:

2.1.

Nghiên cứu hàn lâm

Nghiên cứu hàn lâm trong một ngành khoa học nào đó là các
nghiên cứu nhằm mục đích mở rộng kho tàng tri thức của ngành khoa học nào đó. Kết
quả của nghiên cứu hàn lâm chủ yếu nhằm vào mục đích trả lời cho các câu hỏi về
bản chất lý thuyết của khoa học. Hay nói cách khác, nghiên cứu hàn lâm có mục
đích xây dựng và kiểm định các lý thuyết khoa học. Các lý thuyết khoa học

dùng

để giải thích và

dự

báo các hiện tượng khoa học.

Nghiên cứu hàn lâm trong ngành

marketing

(tiếp thị) là các nghiên cứu nhằm mục đích mở rộng kho tàng tri thức của khoa học

marketing

(tiếp thị). Các nghiên cứu này nhằm
vào mục đích xây dựng và kiểm định các lý thuyết khoa học về marketing để giải
thích dự báo các hiện tượng marketing (tiếp thị). Kết quả của nghiên cứu hàn
lâm marketing (tiếp thị) không nhằm vào việc ra các quyết định về marketing (tiếp
thị) của các nhà quản trị trong một công ty

cụ

thể mà thường là được công bố trong các tạp chí khoa học hàn lâm về marketing
(tiếp thị).

Ví dụ: Các công
ty trong ngành mỹ phẩm nên phân bổ ngân sách quảng cáo của mình trên các phương
tiện truyền thông đại chúng như thế nào để đạt được hiệu quả tối ưu.

Có thể thấy kết quả từ nghiên cứu này không trực tiếp giúp
giải quyết một vấn đề kinh doanh cụ thể nào của một công ty nào cả (không sử dụng
trực tiếp trong việc ra quyết định kinh doanh của một công ty cụ thể). Nó chỉ
giúp giải thích

mối

quan hệ giữa các biến
trong thị trường. Kết quả này có thể được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau và được làm cơ sở để thực hiện các nghiên cứu ứng dụng. Các công ty có thể
vận dụng chúng để giải quyết các vấn đề kinh doanh của công ty mình (không riêng
cho một công ty nào).

2.2.

Nghiên cứu ứng dụng

Nghiên cứu ứng dụng là các nghiên cứu nhằm ứng dụng các
thành tựu của

khoa

học trong ngành đó vào thực
tiễn của cuộc sống. Kết quả của nghiên cứu ứng dụng nhằm vào mục đích hỗ trợ

trực tiếp

cho việc ra quyết định. Như vậy, nghiên cứu

ứng

dụng trong nghiên

cứu
marketing

(tiếp thị) là các nghiên cứu áp dụng

khoa

học nghiên

cứu marketing

(tiếp thị) của công
ty. Các nghiên cứu này nhằm vào mục đích hỗ trợ cho các nhà quản trị marketing
(tiếp thị) trong quá trình ra quyết định của mình và

thường

được gọi là nghiên cứu thị trường (

market research

).

Ví dụ: Công ty
Thái Tuấn phải phân bổ ngân sách quảng cáo qua các phương tiện truyền thông đại
chúng như thế nào để có thể thông tin được cho thị trường mục tiêu của mình (ví
dụ thuộc tầng lớp cho thu nhập

cao

, giới nữ,
tuổi từ 30 đến 50 tại Việt Nam).

Đây là vấn đề nghiên cứu thuộc dạng nghiên cứu ứng dụng. Kết
quả của nghiên cứu này phục vụ cho việc ra quyết định marketing (tiếp thị) cụ
thể của công ty Thái Tuấn. Kết quả của nghiên cứu này là tài sản riêng của công
ty Thái Tuấn và nó thường không được xuất bản công khai.

3.

Phương pháp nghiên cứu

3.1.

Định tính và định lượng

chính

, đó là:

 

  • Định tính (

    qualitative
    methodology

    ): Thường đi đôi với việc khám phá ra các lý thuyết khoa học,

    dự

    a trên quy tắc quy nạp (nghiên cứu trước, lý
    thuyết sau). 

Có nhiều trường phái trong nghiên cứu khoa học, chúng ta có thể chia thành hai trường phái, đó là:

  •  

    Nghiên cứu định lượng (

    quantitative

    ):
    Gắn liền với việc kiểm chứng chúng,

    dựa

    trên
    nguyên tắc suy diễn (lý thuyết rồi đến nghiên cứu.

Cần chú ý là không phải khám phá ra các lý thuyết khoa học
là phải dùng định tính và kiểm định các lý thuyết khoa học là phải dùng định lượng.
Phương pháp định tính vẫn được sử dụng để kiểm định các lý thuyết khoa và

 

phương pháp định lượng cũng thường được sử dụng
để khám phá ra các lý thuyết khoa học.

3.2.

Suy diễn và quy nạp



Hình 1

: Suy diễn và quy nạp
trong nghiên cứu

  • Quy trình nghiên cứu của phương pháp suy diễn bắt
    đầu từ các lý thuyết khoa học đã có để từ đó đề ra các giả thuyết về vấn đề
    nghiên cứu (

    research problems

    ) và dùng quan
    sát để kiểm định các giả thuyết (

    hypothesis testing

    )
    này.

     

  •      Quy trình nghiên cứu của phương pháp quy nạp đi
    theo hướng ngược lại với quy trình suy diễn. Phương pháp quy nạp bắt đầu bằng
    cách quan sát các hiện tượng để xây dựng mô hình (

    pattern

    )
    cho vấn đề nghiên cứu và rút ra các kết luận về các vấn đề nghiên cứu này.