Nụ cười Trần Đông A
7h20 phút tối 15-7, tại Bệnh viện Nhi đồng TP Hồ Chí Minh, GS.BS Trần Đông A rời khỏi phòng mổ mà ông bước vào từ 6h sáng. Dừng lại chỉ vài phút giữa một rừng máy ảnh, máy quay phim, ông khẳng định: “Đến lúc này, thì cuộc mổ đã diễn ra đúng như dự tính… Ca phẫu thuật hai bé Trúc Nhi – Diệu Nhi đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc của nền y tế Việt Nam về tách dính trẻ song sinh dính liền”.
Sẽ không ai hoài nghi điều đó. Bởi lẽ GS.BS Trần Đông A là một trong 9 bác sĩ chuyên gia được mời tham vấn cho kíp mổ, túc trực bên hai bệnh nhi suốt 13h liền từ khi hai cháu được gây mê cho đến khi ca mổ hoàn tất. Cũng chính ông, vào năm 1988, đã giữ vai trò điều phối, chỉ huy, phẫu thuật viên chính ca mổ tách cặp song sinh dính liền Nguyễn Việt – Nguyễn Đức thành công vang dội. Đó là ca mổ tách dính thứ 7 trên toàn thế giới và là ca đầu tiên ở Việt Nam.
Nụ cười Trần Đông A.
Bác sĩ Trần Đông A là người đi tiên phong. Cùng với 62 bác sĩ cộng sự, ông đã thành công. Bây giờ, thế hệ bác sĩ học trò ông do TS.BS Trương Quang Định, Giám đốc Bệnh viện Nhi đồng thành phố làm trưởng kíp, với sự tham gia của đội ngũ 97 y, bác sĩ đã đưa trình độ mổ tách dính của y khoa Việt Nam lên một tầm cao mới. Đó chính là hạnh phúc lớn lao nhất, là điều mà người thầy thuốc tài ba, tận tụy hài lòng nhất.
Trần Đông A sinh năm 1941, quê gốc ở xã Hải Châu, Hải Hậu, Nam Định, vùng chiêm trũng rất nghèo một thời, ít người có đủ khả năng để học hành đến nơi đến chốn. Gia đình cậu bé Đông A cũng không ngoại lệ nhưng thuở nhỏ ông vẫn học rất giỏi.
Năm 1954, ông theo theo gia đình di cư vào Nam, học tại trường Trung học Hồ Ngọc Cẩn, Sài Gòn. 2 năm sau, năm 1956, khi cậu thiếu niên học lên đệ ngũ thì trường Hồ Ngọc Cẩn chuyển về tỉnh Gia Định. Cậu quyết định học song song, vượt lớp, sáng học đệ ngũ tại trường Hồ Ngọc Cẩn, chiều học lớp đệ tứ ở trường tư. Hè năm 1958, ông lấy bằng tú tài II trước bạn bè cùng khóa ở trường cũ 1 năm.
Ôm mộng trở thành thầy thuốc cứu người, lấy xong chứng chỉ PCB (Lý – Hóa – Sinh) của Đại học Khoa học Sài Gòn, ông theo học Đại học Y khoa Sài Gòn theo diện tình nguyện, ra trường sẽ trở thành bác sĩ quân y. Ông không muốn dự phần vào cuộc chiến nhưng không thể đứng ngoài cuộc chiến, tình nguyện khoác áo lính là để cứu người. Cùng khóa Đại học Y khoa với ông có cả thảy 9 bác sĩ tình nguyện như thế.
Ra trường năm 1966, đóng lon trung úy y sĩ, ông phục vụ trong binh chủng nhảy dù. Tại Tổng y viện Cộng hòa của quân đội Sài Gòn ở Gò Vấp (nay là Bệnh viện 175), nơi ông học nội trú, một giáo sư nổi tiếng am tường nhân tướng học đã nói với hai học trò truyền nhân đắc ý của mình là Trần Đông A và Trần Thành Trai rằng: “Hai anh đều là những nhân tài sẽ thành công vang dội. Các anh sẽ nổi tiếng hơn tôi”.
Ca mổ tách hai bé Trúc Nhi – DIệu Nhi.
Về sau, nhận định này quả nhiên chứng nghiệm. Cả hai đều là những giáo sư y khoa sự nghiệp lẫy lừng. Họ là 2 trong số 3 phẫu thuật viên chủ chốt trong ca mổ Việt – Đức. Người thứ ba là bác sĩ Dương Quang Trung, sau này cũng là GS.TS y khoa, Giám đốc Sở Y tế TP Hồ Chí Minh.
9 năm quân ngũ, Trần Đông A chưa từng nổ một viên đạn, dù đã có mặt trên nhiều chiến trường, tham gia nhiều chiến dịch trong màu áo quân y Việt Nam Cộng hòa. Giữa bom đạn đôi bên gầm thét, ông vẫn cầm chắc dao mổ, trở thành một trong những bác sĩ quân y có tần suất mổ nhiều và thành công nhất. Ông từng được thưởng nhiều huy chương, trong đó có 5 anh dũng bội tinh, 1 huy chương của Sư đoàn Không kị Hoa Kỳ. Ông cũng từng được quân đội Sài Gòn gửi đi tu nghiệp phẫu thuật tại Texas để nâng cao tay nghề.
Năm 1975, ông là Thiếu tá, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn Quân y, Sư đoàn Nhảy dù quân lực Việt Nam Cộng hòa. Với vị trí này, ông phải chịu 2 năm “học tập cải tạo” tại trại Suối Máu (Đồng Nai). Với đời, ông chọn chuyên môn, không tìm lý tưởng. Song, ai cũng phải chịu trách nhiệm với chỗ đứng của mình.
Rời trại cải tạo, cả Trần Đông A cũng như những bác sĩ, y sĩ đồng khóa đều không thể tìm được cơ hội phục vụ trong các bệnh viện. Ông từng toan tính chuyện vượt biên nhưng bất thành, bị bắt giam một thời gian. Trình độ chuyên môn cao, danh tiếng nghề nghiệp lừng lẫy đã cứu ông khỏi cơn bế tắc. Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh Võ Văn Kiệt khi ấy đã vào tận nơi giam gặp ông, bảo: “Anh có thể làm việc ở một bệnh viện. Sau 2 năm, nếu không muốn, anh có thể ra nước ngoài bằng đường chính thức”.
Vậy là năm 1978, ông được nhận vào Bệnh viện Nhi đồng II, TP Hồ Chí Minh, tận hiến suốt 43 năm đến hôm nay với vai trò bác sĩ nhi khoa. Ở đó, ông miệt mài làm việc và nghiên cứu. 10 năm sau, ông đã đóng vai trò chính, cùng đồng nghiệp dựng nên một kỳ quan.
Cặp song sinh Nguyễn Việt và Nguyễn Đức ra đời tại Kon Tum năm 1981. bị ảnh hưởng chất độc da cam, hai anh em dính nhau chung nhau phần bụng chậu, bộ phận sinh dục, hậu môn, có hai chân và một chân cụt.. Đầu tháng 12-1982, cặp song sinh được chuyển vào Bệnh viện Từ Dũ, TP Hồ Chí Minh. Thời đó, đất nước đang trong giai đoạn rất khó khăn. Ngành y thiếu thốn đủ bề, từ thuốc men đến phương tiện, dụng cụ y tế…
Kíp mổ cho hai bé Trúc Nhi – Diệu Nhi.
Nhưng số phận không ngoảnh mặt với hai đưa trẻ song sinh tật nguyền. Sau một chuyến đến thăm vào năm 1983, GS Fujimoto Bunro đã về Nhật thành lập Hội vì sự phát triển của Việt – Đức, quyên góp để giành sự sống cho hai đứa trẻ. Người dân Nhật đã ủng hộ rất đông đảo, nhiệt tình.
Trong hai người, Đức tương đối bình thường thần kinh và trí não, còn Việt bị bại não, thường xuyên lên cơn co giật, tay co quắp, gồng cứng. Mỗi lần như thế, Việt lại kéo lê người anh em dính liền ngã dúi dụi. Được một thời gian, Nguyễn Việt rơi vào hôn mê, sống đời thực vật. Cặp song sinh được Hội Chữ thập đỏ Nhật đưa sang Tokyo điều trị 3 tháng, đến ngày 29-10-1986 thì trở về Việt Nam. Việt đã không còn tri giác, thường xuyên bị sặc, ngưng thở, thường xuyên phải cấp cứu, tiêm thuốc… Mỗi lần như thế, Đức cũng bị ảnh hưởng nặng nề, hôn mê theo. Việt chết, Đức cũng sẽ chết. Việc tách rời cặp song sinh dính liền nhau là yêu cầu không thể trì hoãn.
Sau gần một năm chuẩn bị với vô số cuộc hội chẩn, ngày 4-10-1988, Việt và Đức được phẫu thuật tách dính. 62 y, bác sĩ Việt Nam, Nhật Bản và một số quốc gia khác đã vào cuộc thay tạo hóa sinh ra phần đời riêng cho anh em Việt – Đức. Toàn bộ chi phí, trang thiết bị, thuốc men nhờ sự giúp đỡ của người dân Nhật Bản, đều được chuẩn bị sẵn sàng, đầy đủ. GS.BS Trần Đông A làm trưởng kíp phẫu thuật. Đồng chỉ đạo chuyên môn và trực tiếp phẫu thuật cùng ông là các BS Dương Quang Trung và Trần Thành Trai.
Kết quả thám sát cho biết có một nguy cơ rất lớn: màng dính xương chậu quá cứng, không tách được như dự kiến, phải phẫu đục. Khi hai bác sĩ Lê Kính và Võ Văn Thành thực hiện đục thành xương, GS.BS Trần Đông A đưa ngón tay mình vào dẫn đường. Nếu trượt, đục sẽ cắt vào ngón tay vị bác sĩ nhưng sẽ không làm tổn thương các phần cơ thể hai sinh linh nhỏ.
Sau 17 tiếng đồng hồ, ca mổ tách rời đầu tiên ở Việt Nam thành công, được cả thế giới biết đến. Trước thời điểm đó, cả thế giới chỉ có 6 ca mổ song sinh dính liền. Kết quả, có 2 cặp sống cả hai, 2 cặp chết cả hai, 2 cặp sống một. Ca mổ Việt – Đức khó hơn hẳn vì đây là ca mổ tách dính duy nhất mà một trong hai bệnh nhi dính liền đã chết não. Nhưng cuối cùng, cả hai đều sống. Việt kéo dài được thêm 19 năm, còn Đức đã có một cuộc đời bình thường. Năm 2006, anh lập gia đình với một cô gái cùng là nhân viên tại làng Hòa Bình. Họ có 2 đứa con khỏe mạnh. Ngày Đức cưới vợ, cũng như những dịp quan trọng khác trong đời anh, GS.BS Trần Đông A đều đến chung vui.
Tên tuổi GS.BS Trần Đông A vang khắp thế giới. Và 32 năm sau, ông lại tiếp tục lập kỳ tích khi giữ vai trò chuyên gia tham vấn cho ca mổ bóc tách dính liền Trúc Nhi – Diệu Nhi. May mắn hơn cặp Việt – Đức xưa là cả hai bé có đủ 4 chân tay, não và hệ thần kinh bình thường. Ca mổ được tiến hành khi hai chị em dính liền đã ở tháng tuổi thứ 13, cân nặng được 15 kg. Từ kỹ thuật, phương tiện, thuốc men giai đoạn này đều vượt xa ca mổ năm 1988. Chưa kể, kíp mổ 97 y, bác sĩ đã có thêm nhiều kinh nghiệm, được chính người đi tiên phong tạo ra tiền lệ trực tiếp tham vấn, quan sát mổ. GS.BS Trần Đông A cho rằng khó khăn lớn nhất chính là việc hở xương chậu. Nếu đóng được thì tất cả các cơ quan bên trong đều được ở đúng vị trí.
Hai bé trước khi mổ.
Sau 13 giờ liên tục, ca mổ kết thúc. Các chỉ số đo sinh hiệu hai bé hoàn toàn ổn định. GS.BS Trần Đông A như muốn bật khóc: “Tôi vô cùng hạnh phúc khi mà trong 32 năm qua, tôi được tham gia vào 2 ca phẫu thuật tách dính song sinh thuộc loại khó và hiếm như Việt – Đức và Trúc Nhi – Diệu Nhi”.
Ông về hưu khi đang là Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi đồng II, TP Hồ Chí Minh. Ông cũng từng là Đại biểu Quốc hội 2 khóa XI và XII, từng được tặng thưởng nhiều huân, huy chương. Ông được phong tặng danh hiệu Thầy thuốc nhân dân, Anh hùng Lao động… Gần như mọi thành công và vinh quang trong đời mà một thầy thuốc có thể đạt được, ông đều có đủ. Tất cả đều nhờ sự tận tụy với chuyên môn và tri thức.
Tiếng tăm lừng lẫy nhưng ông vẫn không mở bệnh viện riêng hay phòng mạch tư. Dù đã về hưu, ông vẫn đều đặn từ 6h sáng đến chiều tối miệt mài trong bệnh viện. Luôn trăn trở truyền nghề, truyền tri thức cho thế hệ sau, ông trở thành Chủ nhiệm bộ môn Ngoại nhi Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch và Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh cho đến tận hôm nay.
TS.BS Truong Quang Định, Giám đốc Bệnh viện Nhi đồng thành phố, trưởng kíp mổ, người rạch đường dao đầu tiên trong ca mổ Trúc Nhi – Diệu Nhi là một trong những học trò tài danh mà GS.BS Trần Đông A đã góp công đào tạo, một truyền nhân mà ông tâm đắc. Thầy đã cùng trò tái lập một kỳ tích thay tạo hóa sinh ra cuộc đời mới cho hai đứa trẻ.
Rất bận nhưng ông vẫn thường xuyên chơi thể thao, 79 tuổi vẫn đều đặn chơi vài trận tennis vào mỗi sáng, trước khi đến bệnh viện hay giảng đường. Ông bảo, không sống khỏe, không suy nghĩ tích cực thì không làm được việc gì, nói chi đến lập kỳ tích. GS.BS Trần Đông A là minh chứng sống của một định đề: bất chấp mọi sự níu kéo, cản trở hay hủy hoại của lịch sử, những con người giàu tài năng chuyên môn và luôn sục sôi tâm huyết cứu người, giúp đời sẽ luôn tìm được thành công cùng sự kính trọng.
Tài năng và tận hiến, chế độ nào cũng cần đến họ. Những khó khăn, biến động, kể cả của lịch sử cũng chỉ có thể trì hoãn chứ không thể ngăn cản hay hủy hoại con đường đưa họ đến thành công.
GS.BS Trần Đông A là một con người như thế!