Những vấn đề về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường nội địa: Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ (Phần 3)

Những vấn đề về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường nội địa: Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ (Phần 3)

1. Khái niệm về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ

Như đã nêu trên đây, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, khi tiếp cận khái niệm năng lực cạnh tranh theo nghĩa hẹp, có quan điểm cho rằng, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, thực chất là nâng cao quy mô, trình độ và chất lượng nguồn lực về kinh tế, kỹ thuật, quản lý của doanh nghiệp. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo cách tiếp cần này tuy không sai nhưng chưa đầy đủ. Vì thực tế trên thị trường cạnh tranh, không phải cứ doanh nghiệp nào khi nâng cao thực lực cũng tạo ra lợi thế cạnh tranh.

Theo các tiếp cận khái niệm tổng quát về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ở mục 1.1.1 và các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ở mục 1.1.3 trên đây thì trên cơ sở thực lực, doanh nghiệp phải tạo ra được lợi thế cạnh tranh là cái mà các đối thủ khác không có. Lợi thế cạnh tranh là yếu tố cần thiết cho sự thành công và tồn tại lâu dài, hay khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh. Theo Jack Welch, nếu không có lợi thế thì đừng cạnh tranh.

Thực tế, trên thị trường cạnh tranh, không phải cứ doanh nghiệp nào có thực lực là có lợi thế thế cạnh tranh. Doanh nghiệp phải biết chuyển hóa thực lực đó thành lợi thế cạnh tranh. Đồng thời, việc chuyển hóa thực lực thành lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp khác nhau là khác nhau. Việc chuyển hóa đó phụ thuộc vào lựa chọn chiến lược của mỗi doanh nghiệp trong việc phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực có giới hạn, lựa chọn phân khúc thị trường tham gia cạnh tranh, lựa chọn phương thức cạnh tranh trên thị trường,…

Vì vậy, có thể định nghĩa, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là quá trình gia tăng thực lực và chuyển hóa nó thành lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.

Trong trường hợp cụ thể của doanh nghiệp bán lẻ, thực lực của doanh nghiệp bán lẻ được huy động, phân bổ và sử dụng vào hai hoạt động chủ yếu là thiết lập, vận hành hệ thống cung ứng hàng hóa để bán lại và cung cấp các dịch vụ có liên quan cho người tiêu dùng cuối cùng. Lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ trong việc thiết lập, vận hành hệ thống cung ứng hàng hóa bán lẻ của mình có thể bao gồm: lợi thế trong quan hệ với nhà cung cấp, lợi thế về chi phí lưu thông, lợi thế về tạo thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm,… Đồng thời, lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ trong cung cấp dịch vụ cho người mua tại các cơ sở bán lẻ của mình có thể bao gồm: lợi thế về địa điểm bán hàng, lợi thế về cung cấp sự tiện lợi, tiện nghi cho khách hàng,…

Mặt khác, trên thị trường bán lẻ, một nhà bán lẻ dù có thực lực lớn đến đâu cũng không đủ năng lực để tham gia mọi phân khúc của thị trường (phân khúc theo mặt hàng tiêu dùng, theo mức thu nhập của người mua, theo không gian lãnh thổ,…). Do đó, các doanh nghiệp bán lẻ buộc phải lựa chọn và tập trung phân bổ thực lực của mình vào việc thiết lập, vận hành hệ thống cung ứng hàng hóa bán lẻ và cung cấp dịch vụ bán lẻ ở phân khúc thị trường nhất định. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng phải tìm kiếm những phương cách phù hợp để phát huy tốt nhất thực lực, khai thác các cơ hội thị trường và khắc phục những yếu kém về nguồn lực, vượt qua những thách thức trên thị trường để xây dựng lợi thế cạnh tranh của mình trước các đối thủ trên thị trường.

Như vậy, căn cứ vào những tiếp cận trên đây có thể định nghĩa đầy đủ hơn như sau: Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ là quá trình gia tăng thực lực và tìm kiếm phương cách phù hợp để chuyển hóa nó thành lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong việc cung cấp hàng hóa bán lẻ với chất lượng, giá cả và các dịch vụ kèm theo cho người tiêu dùng cuối cùng tốt hơn và giành được lợi nhuận cao hơn so với đối thủ cạnh tranh trên thị trường bán lẻ.

2. Nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường nội địa

2.1. Những vấn đề liên quan đến nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường nội địa

Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường là vấn đề sống, còn của doanh nghiệp, vì lợi ích, hiệu quả kinh doanh và sự phát triển bền vững của chính doanh nghiệp. Đồng thời, như đã nêu trên đây, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường bán lẻ không chỉ mang lại lợi ích cho chính doanh nghiệp mà còn mang lại những lợi ích chung cho toàn nền kinh tế. Vì vậy, trên thị trường cạnh tranh, những vấn đề đặt ra là:

+ Vấn đề làm thế nào để các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp bán lẻ nói riêng tập trung nâng cao thực lực cạnh tranh chứ không phải bằng các thủ đoạn “đen” để giành được lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ:

Thực tế trên thị trường cạnh tranh, luôn có những doanh nghiệp thay vì tập trung đầu tư nâng cao thực lực lại sử dụng những thủ đoạn “đen” để giành được lợi thế cạnh tranh. Ví dụ, những thủ đoạn “đen” thường được sử dụng như: mua chuộc, dụ dỗ, ép buộc trong kinh doanh, dèm pha doanh nghiệp khác, quảng cáo sai với thực chất, phân biệt đối xử trong hiệp hội, bán hàng đa cấp bất chính… Việc sử dụng các thủ đoạn “đen” thường ít tốn kém cả về thời gian, chi phí đầu tư, công sức, nhưng có thể gây thiệt hại lớn cho các đối thủ cạnh tranh.

Đối với các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường khó khăn trong việc đối phó với hình thức cạnh tranh “bẩn” này. Đồng thời, để đối phó với các thủ đoạn này, các doanh nghiệp không chỉ bị tổn hại về thực lực (cả về nguồn lực vật chất và nguồn lực vô hình), mà còn lâm vào tình trạng mất phương hướng trong nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.

Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là phải tạo lập được môi trường cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, các doanh nghiệp thay vì tạo lợi thế cạnh tranh cho mình bằng mọi cách tiêu diệt đối thủ, phải hướng tới nâng cao năng lực phục vụ để thu hút khách hàng tốt nhất.

2) Vấn đề làm thế nào để việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường mang lại lợi ích thiết thực cho cả nền kinh tế và cho doanh nghiệp.   

Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tất yếu dẫn tới vị thế cạnh tranh cao của doanh nghiệp trên thị trường, đẩy thị trường đến gianh giới giữa cạnh tranh và độc quyền. Điều đó có thể dẫn đến những hệ quả không mong muốn trong nền kinh tế như dư thừa năng lực, chi phí cao,… 

Trong ngành bán lẻ, do cấu trúc thị trường có nhiều người bán và sự gia nhập cũng như rời bỏ ngành bán lẻ tương đối dễ dàng kể cả trong dài hạn, nên trên thị trường phổ biến là tình trạng cạnh tranh độc quyền. Trong đó, các doanh nghiệp bán lẻ tham gia cạnh tranh độc quyền sẽ gia tăng năng lực quá mức (xây dựng thêm cơ sở bán lẻ ở trên cùng một địa bàn, cung cấp thêm các dịch vụ không tính phí,…) gây ra tính phi hiệu quả khi chi phí bị đẩy lên cao. Hơn nữa, khi các nhà cạnh tranh độc quyền phải đối mặt với những vấn đề nảy sinh trong quá trình điều chỉnh thị trường, nhất là việc buộc phải giảm giá xuống mức chi phí cận biên làm cho các nhà cạnh tranh độc quyền thua lỗ. Trong trường hợp đó, nhiều khi chính phủ phải bù lỗ, hỗ trợ cho doanh nghiệp tiếp tục kinh doanh thay vì tăng thuế. Như vậy, doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền gây ra khoản mất không đối với xã hội do cách định giá độc quyền Mặt khác, cạnh tranh độc quyền không có hiệu quả đối với xã hội do số lượng doanh nghiệp trên thị trường không ổn định tương đối, có thể có quá nhiều hoặc quá ít người tham gia thị trường.

Trong ngành bán lẻ, đôi khi trong một số lĩnh vực ngành hàng hay địa bàn xay ra tình trạng độc quyền nhóm. Khi thị trường chỉ có một số ít người bán, khi đó có thể dẫn đến sự liên kết, hợp tác giữa họ. Trong đó, những tương tác chiến lược giữa họ trở nên có tầm quan trọng đặc biệt và tạo ra tình trạng độc quyền nhóm. Về lý thuyết, tình trạng độc quyền nhóm vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đến thị trường. Trong đó, sự hợp tác giữa các nhà độc quyền nhóm trong lĩnh vực bán lẻ có thể gây bất lợi đối với toàn xã hội vì nó dẫn tới mức giá lại quá cao. Ví dụ, các nhà bán lẻ có thể thỏa thuận, liên kết với các nhà cung ứng để độc quyền bán lẻ một loại sản phẩm và ở khu vực thị trường nào đó với giá cố định… Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách nên tìm cách buộc doanh nghiệp trên thị trường độc quyền nhóm cạnh tranh, chứ không phải cấu kết với nhau.

 2.2. Nội dung và phương thức nâng cao năng lực cạnh tranh từ phía doanh nghiệp bán lẻ

a/ Gia tăng các nguồn lực hữu hình của doanh nghiệp bán lẻ:

+ Huy động và phân bổ hợp lý, có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp bán lẻ

Trong nội dung này, các doanh nghiệp bán lẻ phải tiến hành các hoạt động: Đánh giá nhu cầu sử dụng vốn để gia tăng hoạt động kinh doanh bán lẻ của doanh nghiệp (mở thêm cơ sở bán lẻ, cơ sở kho hàng, tăng vốn lưu động,…); Tìm kiếm các nguồn vốn có mức chi phí hợp lý; Xây dựng phương án tài chính để có hiệu quả cao nhất; Xây dựng phương án đầu tư và chuẩn bị các nguồn vốn đầu tư phát triển hệ thống phân phối bán lẻ hàng hóa của doanh nghiệp;…

+ Phát triển mạng lưới cơ sở bán lẻ và phương tiện phục vụ cho hoạt động bán hàng của doanh nghiệp trên thị trường

Việc phát triển mạng lưới cơ sở bán lẻ và các phương tiện phục vụ cho bán hàng là một nội dung quan trọng trong nâng cao thực lực của các doanh nghiệp bán lẻ, không chỉ để gia tăng năng lực đón tiếp người mua, mà còn là cơ sở vật chất kỹ thuật để đảm bảo cung cấp tốt các dịch vụ kèm theo như đã nêu trên đây. Do đó, trong nội dung này, các doanh nghiệp cần nghiên cứu lựa chọn vị trí xây dựng cơ sở bán lẻ đảm bảo cung cấp cho người mua (người tiêu dùng cuối cùng) sự thuận tiện của địa điểm bán hàng; Nghiên cứu nhu cầu mua đầu tư các trang thiết bị, phương tiện  phù hợp với các phương thức và hình thức kinh doanh bán lẻ, phù hợp với chủ trương hay định hướng cung cấp các dịch vụ bán lẻ khác của doanh nghiệp trên thị trường cạnh tranh,…

+ Nâng cao năng lực của hệ thống cơ sở vật chất đảm bảo cung ứng hàng hóa cho các cơ sở bán lẻ của doanh nghiệp

Trong điều kiện thị trường bán lẻ cạnh tranh, nội dung phát triển này ngày  càng quan trọng hơn do xu hướng cạnh tranh về giá, về đảm bảo giao hàng đúng thời gian, đúng địa điểm, đúng chi phí; đúng chất lượng… Do đó, trên thị trường, các doanh nghiệp bán lẻ phải thực hiện hàng loạt các nội dung cơ bản để phát triển hệ thống cung ứng hàng hóa bán lẻ như: xây dựng cơ sở thu mua, kho hàng, cơ sở sơ chế, phân loại hàng hóa, phương tiện bảo quản, phương tiện vận tải,…

+ Gia tăng các nguồn lực vật chất hữu hình khác của doanh nghiệp bán lẻ như các nguồn cung cấp vật liệu đầu vào (như bao bì, chất phụ gia chế biến thực phẩm,…), hệ thống thu gom, xử lý chất thải

Bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái,… đang trở thành những chủ đề thu hút được sự quan tâm của các cơ quan quản lý, người tiêu dùng. Vì vậy, việc xây dựng thực lực để giải quyết vấn đề này sẽ mang lại lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp bán lẻ. Trong nội dung này, các doanh nghiệp bán lẻ, nhất là các doanh nghiệp có qui mô lớn cần phải gia tăng đầu tư vào cung cấp bao bì thân thiện với môi trường; trang bị các phương tiện để kiểm tra tồn dư chất độc hại trong hàng hóa bán ra, nhất là với các mặt hàng thực phẩm; xây dựng hệ thống thu gom, xử lý chất thải tại các cơ sở bán hàng, cơ sở chế biến;

b/ Nâng cao giá trị các nguồn lực vô hình của doanh nghiệp bán lẻ:

+ Xây dựng, củng số và quảng bá danh tiếng của doanh nghiệp trên thị trường bán lẻ

Trong nội dung này, các doanh nghiệp bán lẻ cần nỗ lực để thực hiện các hoạt động, như: Đánh giá vị thế của doanh nghiệp trên thị trường bán lẻ; Định vị các giá trị cốt lõi của doanh nghiệp (giá trị dịch vụ cung cấp, giá trị hay độ tin cậy của cam kết với người mua,…); Duy trì các hoạt động xây dựng danh tiếng của doanh nghiệp một cách thường xuyên; Quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường bán lẻ dưới nhiều hình thức, phương tiện khác nhau (về chất lượng các dịch vụ bán lẻ được cung cấp cho khách hàng, về các hàng hóa bán ra được gắn nhãn hiệu của doanh nghiệp…).

+ Xây dựng và phát triển các mối quan hệ tin cậy, bền vững với khách hàng và các đối tác của doanh nghiệp trên thị trường bán lẻ

Trên thị trường, các doanh nghiệp bán lẻ phải chú trọng phát triển các mối quan hệ với khách hàng (người tiêu dùng cuối cùng), với các nhà cung cấp hàng hóa, nguyên vật liệu, với các ngân hàng, với cơ quan quản lý nhà nước… Cụ thể, để phát triển mối quan hệ với khách hàng, doanh nghiệp cần phải thực hiện các hoạt động chủ yếu như: xác định tệp khách hàng chủ yếu của doanh nghiệp; xác định những đặc điểm chính của tệp khách hàng đó; lựa chọn các phương thức, hình thức cung cấp dịch vụ bán lẻ phù hợp với khách hàng; xây dựng kênh thu nhận và xử lý thông tin phản hồi của khách hàng. Đối với các nhà cung cấp hàng hóa, doanh nghiệp bán lẻ xây dựng mối quan hệ trên cơ sở thực thi các hoạt động cụ thể: xây dựng danh sách các nhà cung cấp hàng hóa chủ yếu; đàm phán và ký kết các hợp đồng cung cấp với những điều, khoản cụ thể; xây dựng cơ chế phản hồi kênh và xử lý thông tin phản hồi giữa doanh nghiệp bán lẻ và nhà cung cấp;… Đối với các nhà cung cấp dịch vụ (dịch vụ công, dịch vụ tài chính,…), các doanh nghiệp bán lẻ xây dựng và phát triển quan hệ trên cơ sở thực thi các hoạt động cụ thể như: cung cấp đầy đủ thông tin theo yêu cầu thường xuyên và đột xuất của các các quan quản lý; chấp hành nghiêm các qui định của các cơ quan quản lý nhà nước; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của một cơ sở kinh doanh bán lẻ…

+ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp bán lẻ

Chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp được thể hiện được thể hiện qua kiến thức, kỹ năng của các nhân viên (bán hàng, kế toán, kho, quản lý,…), khả năng thích ứng của nhân viên với tính linh hoạt trong hoạt động kinh doanh và lòng trung thành của nhân viên,… Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, các doanh nghiệp bán lẻ sẽ phải chú trọng đến các hoạt động chủ yếu như: tuyển chọn lao động; xây dựng kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cho các lao động; xây dựng chính sách trọng dụng và đào thải lao động; xây dựng các nguyên tắc ứng xử trong doanh nghiệp; xây dựng môi trường lao động công bằng, thân thiện,…

c/ Phương thức nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ:

Trên thị trường bán lẻ, các doanh nghiệp phải luôn tìm kiếm những phương thức phù hợp để chuyển hóa các nguồn lực hữu hình và vô hình thành lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong việc cung cấp hàng hóa bán lẻ với chất lượng, giá cả và các dịch vụ kèm theo cho người tiêu dùng cuối cùng tốt hơn và giành được lợi nhuận cao hơn so với đối thủ cạnh tranh trên thị trường bán lẻ.

Về lý thuyết, các doanh nghiệp trong cùng một ngành thường sử dụng những chiến lược kinh doanh khác nhau và không thể dễ dàng bị sao chép được vì chiến lược kinh doanh phụ thuộc vào chính nguồn lực và những điều kiện thị trường đang hoặc sẽ tham gia của doanh nghiệp đó. Thông thường, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp bán lẻ nói riêng có thể lựa chọn 3 loại chiến lược cạnh tranh khác nhau, bao gồm:

+ Chiến lược chi phí thấp của các doanh nghiệp bán lẻ là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh bằng cách tìm kiếm các nguồn hàng có chất lượng tương tương và giá cả cạnh tranh so với hàng hóa cùng loại, giảm chi phí cung ứng hàng hóa đến cơ sở bán lẻ và chi phí cung cấp dịch vụ bán lẻ để có thể định giá thấp hơn các đối thủ cạnh tranh trong ngành bán lẻ nhằm thu hút khách hàng mục tiêu nhạy cảm với giá bán lẻ và chiếm được thị phần lớn. 

Chiến lược này thích hợp với những doanh nghiệp bán lẻ quy mô lớn có khả năng giảm chi phí trong quá trình hoạt động kinh doanh. Theo đuổi chiến lược này, các doanh nghiệp bán lẻ có thể tạo lập được hai lợi thế cơ bản: 1) Lợi thế cạnh tranh về giá thấp hơn đối thủ nhưng vẫn có mức lợi nhuận tương đương hoặc cao hơn; 2) Lợi thế duy trì sự ổn định hơn các doanh nghiệp khác trong điều kiện thị trường gia tăng tính cạnh tranh.

Để theo đuổi chiến lược này, các doanh nghiệp bán lẻ phải chú trọng vào các vấn đề cốt lõi như: 1) Kiểm soát các luồng chi tiêu hiệu quả đảm bảo tổng chí phí ở mức thấp; 2) Tập trung vào tệp khách hàng có mức thu nhập trung bình, thấp; 3) Nâng cao năng lực trong quản lý nguồn hàng và tổ chức cung ứng hàng hóa.

+ Chiến lược khác biệt hoá sản phẩm của các doanh nghiệp bán lẻ là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh bằng cách cung ứng các dịch vụ bán lẻ có sự khác biệt rõ so với đối thủ cạnh tranh. Đặc tính khác biệt của các dịch vụ bán lẻ có thể ở môi trường của cơ sở bán lẻ, về mức độ tiện lợi của địa điểm, về đảm bảo giao hàng…

Chiến lược này thích hợp với các doanh nghiệp có khả năng thoả mãn nhu cầu khách hàng theo cách mà các đối thủ cạnh tranh không làm được. Theo đuổi chiến lược này, các doanh nghiệp bán lẻ có thể tạo lập được lợi thế về sự tin tưởng của khách hàng vào chất lượng hàng hóa và dịch vụ bán lẻ kèm theo.

Để theo đuổi chiến lược này, các doanh nghiệp bán lẻ phải chú trọng vào các vấn đề cốt lõi như: 1) Lựa chọn những phân đoạn thị trường mà ở đó khách hàng ít nhạy cảm về giá; 2) Nghiên cứu áp dụng các phương thức tiếp thị phân biệt; 3) Nâng cao năng lực của các bộ phận chức năng có khả năng tạo thuận lợi cho sự khác biệt của mình như bộ phận R&D, tiếp thị và bán hàng để tạo ưu thế cạnh tranh trên thị trường; 4) Kiểm soát chi phí để không vượt quá mức khách hàng sẵn sàng trả vì việc phát triển năng lực để tạo lợi thế khác biệt thường rất tốn kém.

+ Chiến lược tập trung của các doanh nghiệp bán lẻ là chiến lược tập trung vào những phân đoạn thị trường bán lẻ mà doanh nghiệp có ưu thế vượt trội hơn so với các đối thủ khác.

Chiến lược này thích hợp với các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ, có khả năng khai thác nguồn hàng độc đáo, có khả năng tiếp cận các nhóm khách hàng cụ thể, có khả năng cung cấp các dịch vụ bán hàng có tính chuyên biệt cho các nhóm khách hàng… Theo đuổi chiến lược này, các doanh nghiệp bán lẻ có thể tạo lập được lợi thế cả về chi phí thấp hoặc sự khác biệt hóa để giành được thị phần cao trong nhóm khách hàng hay phân đoạn thị trường cụ thể.

Chiến lược tập trung đòi hỏi các doanh nghiệp bán lẻ phải chú trọng vào các vấn đề cốt lõi như: 1) Xác định một số nhóm khách hàng hoặc phân đoạn thị trường thị trường hẹp, có thể đó là một vùng, một loại khách hàng hoặc một loại sản phẩm; 2) Phải chú trọng đồng thời đến việc tạo ra sự khác biệt sản phẩm và chi phí thấp, nhưng có thể ở những mức độ khác nhau; 3) Tập trung nâng cao năng lực đặc biệt của doanh nghiệp có được để tạo ra lợi thế cạnh tranh.

2.3. Vai trò của nhà nước và nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường nội địa

Các doanh nghiệp bán lẻ cạnh tranh trên thị trường theo qui luật khách quan, nhưng cũng có thể dẫn đến sự mất ổn định của thị trường và gây ra những ảnh hưởng ngoại ứng do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt là khi các doanh nghiệp sử dụng các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh. Điều đó, một mặt, sẽ dẫn đến những tổn thất chung của nền kinh tế. Mặt khác, nó cũng làm tổn hại đến năng lực cạnh tranh và tác động tiêu cực đến mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh thực sự của các doanh nghiệp làm ăn chân chính. 

Đồng thời, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường nói chung đã dần được khẳng định qua sự phát triển của các học thuyết kinh tế. Trường phái cổ điển và tân cổ điển cho rằng sự cân bằng về kinh tế do thị trường tự điều tiết, nhưng học thuyết của J.M. Keyns cho rằng muốn có cân bằng, nhà nước phải điều tiết nền kinh tế. Theo lý thuyết của Keyns, sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường được thông qua các chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, lãi suất và các công cụ khác. Nhà nước cần thị trường để tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thị trường cần Nhà nước để xử lý tính không hoàn hảo của thị trường, đảm bảo công bằng kinh tế, ổn định thị trường, giải quyết những ảnh hưởng ngoại ứng và cung cấp những hàng hoá công cộng cho thị trường.

Như vậy, vai trò của nhà nước trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ được thể hiện ở hai phương diện chủ yếu:

Một là, nhà nước phải đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng cho mọi doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trường. Qua đó, nhà nước thúc đẩy các doanh nghiệp chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh thực sự có lợi cho doanh nghiệp và cho nền kinh tế;

Hai là, nhà nước can thiệp vào thị trường thông qua các chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, lãi suất và các công cụ khác, đồng thời cung cấp các dịch vụ công cho doanh nghiệp. Qua đó, nhà nước góp phần làm giảm chi phí đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung, đồng thời nhà nước có thể thông qua chính sách lãi suất, chính sách tài khóa và các công cụ khác để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tham gia thực hiện chính sách xã hội của nhà nước.

Nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường xuất phát từ vai trò của nhà nước, bao gồm:

+ Thiết lập khuôn khổ về luật pháp, trong đó có luật cạnh tranh và các qui định cụ thể điều chỉnh cạnh tranh trên thị trường bán lẻ. Cụ thể là thiết lập khuôn khổ về luật pháp nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trên thị trường bán lẻ. Trong đó, trọng tâm là xây dựng và thực thi hệ thống luật pháp hoàn chỉnh nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp phát triển hiệu quả các hệ thống phân phối bán lẻ hàng hoá; chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, độc quyền thống lĩnh thị trường và các hình thức phân phối bán lẻ bất hợp pháp, bảo vệ cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ người tiêu dùng.

+ Tạo lập môi trường kinh doanh nói chung và môi trường kinh doanh bán lẻ nói riêng. Môi trường kinh doanh bán lẻ là tổng thể các yếu tố bên ngoài tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các quyết định hoặc hoạt động của các doanh nghiệp bán lẻ. Những yếu tố có ảnh hưởng đến chi phí đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như chỉ số làm phát, mức lãi suất, thuế suất, các loại phí và lệ phí phí (giao thông, môi trường…). Để đảm bảo cho các doanh nghiệp bán lẻ nâng cao năng lực cạnh tranh, nhà nước cần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định chính trị – xã hội, cải cách khu vực công, nâng cao chất lượng và hiệu quả cung cấp các dịch vụ công cho các doanh nghiệp tham gia thị trường bán lẻ, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và xoá đói giảm nghèo, phát triển văn hoá (nhất là văn hoá tiêu dùng), bảo vệ môi trường sinh thái.

+ Hoạch định các chính sách hỗ trợ, bảo vệ các doanh nghiệp bán lẻ trong nước nói chung và ở vùng nông thôn nói riêng trước sức cạnh tranh của các nhà phân phối nước ngoài. Ví dụ, nhà nước có thể trực tiếp tổ chức xây dựng một số kết cấu hạ tầng thương mại bán lẻ trên các địa bàn đặc thù và cho các doanh nghiệp bán lẻ thuê lại mặt bằng với chi phí thấp. Hoặc, nhà nước qui định hạn chế phát triển các cơ sở bán lẻ qui mô lớn ở một số khu vực nội thị để vừa giảm ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông, vừa để bảo vệ các cơ sở bán lẻ truyền thống, các cơ sở có qui mô vừa và nhỏ…

Ths. Lương Thanh Hải

Phòng Thông tin và xúc tiến Thương mại – VIOIT