Những nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại – Định nghĩa Ngân hàng Thương mại. Lịch sử đã ghi – Studocu
Định nghĩa Ngân hàng Thương mạ
i.
Lịch sử đã ghi nhận sự phát sinh,
phát triển của ngành Ngân h
àng được quyết
định bởi quá trình phát triển củ
a các quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Đồ
ng thời
cũng còn những yếu tố khác có ảnh
hưởng quyết định đến cấu trú
c và sự
phát triển của hệ thống ngân h
àng; như chế độ pháp quyền, điều k
iện chiến
tranh và tình trạng khủng hoảng kin
h tế, tài chính…
Từ
thời
cổ
đại,
ở
những
nước
có
nền
thương
mại
phát
triển
sớm đ
ã
xuất hiện
những
nhóm
thương
nhân
chuyên
nghề
kinh
doanh
các
dịch
vụ
tiền
tệ
nhưng
c
hưa có
một
cơ
cấu
tổ
chức
nào
được
coi
như
một
ngân
hàng
theo
đúng
chức
d
anh
của
nó.
T
rong
n
hiều
thế
kỷ
của
thời
trung
cổ,
nghề
kinh
doanh
này
đã
phải
trải
qua
bao
nỗi
thăng
trầm
bởi
c
hiến tra
nh
tàn
khốc,
không
thể
phát
triển
được.
Phải
chờ
cho
đến
đầu
thế
kỷ
thứ
12,
khi
c
hiến
tranh
đã
dịu
bớt,
kinh
tế
hàng
hoá
đã
có
bước
ph
át
triển,
nhất
là khu
vực
Tây âu.
Khi
đó,
một tổ
chức
được
mệnh
danh
là
ngân hàng
được
thành
lập
ở
V
enise
nước
ý
v
ào
năm
1
171,
tuy
về
thực
chất
c
hỉ
là
một
tổ
chức
tài
chính
được
thiết
lập
để
thực
hiện
sự
tài
trợ
cho
chiến
tranh,
nhưng
nội
dung
hoạt
động
của
n
ó
đã
b
ao
hàm
c
ả
nghiệp
vụ
ngân
hàng.
Cho
đế
n
đầu
thế
kỷ
15,
m
ột
s
ố
tổ
chức
k
inh
doanh
tiền
tệ
được
thành
lập,
được
xem
như
những
ngân
hàng
thực
thụ
như:
Ngân
hàng
Barcelon
e,
Ngân
hàng
V
alenee
của
Tây
Ban
Nha,
những
tổ
chức
này
đã
thực
hiện
các
nghiệp
vụ
nhận
tiền
ký
thác,
c
ấp
tín
dụng,
chuyển
ngân
và
làm
các
nghiệp vụ thu- chi tiền cho khách hàng với ý nghĩa là những nghiệp vụ kinh doan
h cơ bản.
Sự phát triển của Ngân hàng
Thương mại phải kể từ thời kỳ phục hưng, và đặ
c biệt là từ khoảng thế
kỷ
17
cho
đến
nay
.
Thời
kỳ
kinh
tế
hàng
hoá
phát
triển
nhanh
ch
óng,
mạnh
mẽ,
nền
thương
mại
không ngừng mở rộng, các quan hệ
hàng hoá- tiền tệ phát triển bao trùm đời sống
kinh tế- xã hội đã
tạo ra những tiền đề kinh tế phát sinh và phát triển nghề Ngân hàng.
ở
Việt
nam,
trong
bước
chuyển
đổi
s
ang
cơ
chế
thị
trường
có
sự
q
uản
lý
của
Nhà
nước,
thực
hiện
nhất
quán
chính
sách
k
inh
tế
nhiều
thành
phần
theo
định
hướng
xã
h
ội
chủ
nghĩa.
Mọi
người
được
tự
do
kinh
doanh
theo
pháp
l
uật,
được
b
ảo
hộ
quyền
sở
hữu
và
thu
nhập
hợp
pháp,
các
hì
nh
thức
sở
hữu
c
ó
thể
hỗn
hợp
đan
kết
với
nhau
hình
thành
các
tổ
chức
kinh
doanh
đa
dạng.
Các
doanh
nghiệp
không
phân
bi
ệt
quan
hệ
sở
hữu
đều
tự
chủ
kinh
doanh,
hợp
tác
và
cạnh
tranh
với
nhau,
bình
đẳng
trước pháp
luật. Theo
hướng
đó,
nền
kinh
tế hàng
hoá
phát
triển
tất
yếu sẽ
tạo
ra
những
tiền đề c
ần thiết và đòi hỏi
sự ra đời của n
hiều loại hình ngân
hàng và các tổ c
hức tín dụng. Từ năm
1986, hoà
vào công
cuộc đổi
mới c
ơ chế
quản lý
kinh tế
của đất
nước
theo sự c
hỉ đạo
của Đảng
và
Nhà nước, h
ệ thống ngân
hàng được
tổ chức lại
theo Nghị đị
nh 53/HĐBT được tách ra
làm hai cấp:
Ngân
hàng
Nhà
nuớc
đảm
nhận
công
tác
phát
hành
tiền
và
điều
tiết
lưu
thông
ti
ền
tệ,
còn
c
hức
năng kinh doanh được thực hiện bởi các Ngân hàng
Thươ
ng mại.
Năm
1991,
sự
ra
đời
của
các
Ngân
hàng
Thương
mại
cổ
phần
cùng
các
Ngân
hàng
Thương
mại
quốc
doanh
đ
ã
góp
phần
rất
lớn
vào
công
cuộc
phát
triển
đất
n
ước.
Luật
“Tổ
chức
tín
d
ụng”
của
Việt nam ban hành vào ngày 1
2/12/1997 đã định nghĩa Ngân hàng
Thương mại như sau:
“Ngân
hà
ng
Thương
mại
là
một
tổ
chức
tín
dụng
thực
hiện
toàn
bộ
hoạt
động
ngân
hàng
và
các
hoạt
động
kinh
doanh
k
hác
có
liên
quan.
Hoạt
động
ngân
hàng
là
một
hoạt
động
kinh
doanh
tiền
tệ
và
dịch
vụ
ngân
hàng
với
nội
dung
chủ
yếu
và
thường
xuyên
là
nhận
tiền
g
ửi,
sử
dụng
s
ố
tiền
này
để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Những nghiệp vụ cơ bản của Ngân h
àng Thương mại.
Ngân
hàng Thương
mại
là một
tổ
chức
tài
chính tr
ung gian,
hoạt
động
kinh
doanh trên
lĩnh
vực
tiền
tệ. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng giống như một doanh nghiệp thương
mại, đều hướng