Những hạn chế và nguyên nhân – Đổi mới quản lý hoạt động khoa học và công nghệ tỉnh Hòa Bình –

5. Bố cục của luận văn

3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

3.3.2.1. Những hạn chế

– Công tác tham mƣu, đề xuất các chính sách của các cấp, ngành nhằm
cụ thể hóa các định hƣớng, mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ hoạt động khoa học
công nghệ vào kế hoạch hoạt động hàng năm còn chƣa đầy đủ và kịp thời dẫn
đến quản lý nhà nƣớc về khoa học và công nghệ chƣa đổi mới kịp với yêu cầu
thực tế.

– Một số xuất nhiệm vụ khoa học công nghệ của các ngành có hàm lƣợng
khoa học chƣa cao, chƣa thực sự sát với các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã
hội của tỉnh, còn trùng với chức năng nhiệm vụ của ngành. Các nhiệm vụ
khoa học và và công nghệ theo hƣớng ứng dụng công nghệ cao còn hạn chế
và chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tế.

– Nhận thức và sự quan tâm của cộng đồng và các tổ chức, cá nhân,
doanh nghiệp về vai trò của khoa học và công nghệ đối với phát triển kinh tế-
xã hội còn hạn chế; đặc biệt là đối với các vấn đề về thông báo và hỏi đáp về
hàng rào kỹ thuật trong thƣơng mại và sở hữu trí tuệ còn chƣa cao và chƣa
đồng đều. Hoạt động đầu tƣ, nghiên cứu khoa học công nghệ và đổi mới công
nghệ trong các doanh nghiệp còn hạn chế và chậm, điều này làm giảm vai trò
của khoa học công nghệ với nâng cao chất lƣợng sản phẩm hàng hóa của
doanh nghiệp. Số doanh nghiệp khoa học công nghệ còn ít (đến năm 2014
mới có 01 doanh nghiệp khoa học công nghệ đƣợc thành lập).

– Luật Khoa học và Công nghệ đã đƣợc Quốc hội thông qua và chính
thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 với nhiều nội dung thay đổi phù hợp với
điều kiện thực tiễn của hoạt động khoa học và công nghệ trên cả nƣớc. Tuy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện tại địa phƣơng còn chậm và chƣa
thực sự phát huy hiệu quả.

– Nguồn nhân lực khoa học và công nghệ của tỉnh còn thiếu và yếu.
Chƣa có nhiều chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực hoạt động khoa học và công
nghệ. Bộ máy làm công tác khoa học và công nghệ cấp cơ sở thiếu ổn định.
Hội đồng Khoa học và công nghệ cấp cơ sở hiệu quả hoạt động chƣa cao.

– Việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập sang thực hiện cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005
của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
khoa học và công nghệ công lập còn chậm và gặp nhiều khó khăn, bất cập.

– Đặc biệt là chính sách tài chính trong các năm qua còn tạo ra nhiều cản
trở, khó khăn cho hoạt động KHCN.

3.3.2.2. Nguyên nhân hạn chế

– Chƣa có cơ chế cụ thể nhằm điều phối hoạt động quản lý nhà nƣớc về
khoa học và công nghệ. Việc phân công, phân cấp về quyền hạn và trách
nhiệm giữa Trung ƣơng với địa phƣơng, giữa các ban, ngành trong tỉnh còn
chƣa rõ ràng. Việc quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ làm công tác khoa học
công nghệ cấp cơ sở còn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức.

– Hội đồng hội đồng tƣ vấn xác định nhiệm vụ cấp cơ sở còn chƣa thực
sự phát huy hiệu quả. Năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ của các cấp
ngành, đơn vị, tổ chức trong tỉnh còn hạn chế. Các điều kiện phục vụ cho hoạt
động nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao còn đang trong giai đoạn đầu tƣ.
Năng lực tài chính của các doanh nghiệp còn hạn chế.

– Quy mô doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và
vừa, năng lực tài chính còn hạn chế. Các doanh nghiệp còn chƣa gắn lợi ích
của doanh nghiệp với trách nhiệm và quyền lợi về thông báo và hỏi đáp về
hàng rào kỹ thuật trong thƣơng mại và sở hữu trí tuệ, chƣa ý thức tốt vai trò
của việc đầu tƣ đổi mới công nghệ và áp dụng hệ thống quản lý chất lƣợng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tiên tiến trong nâng cao chất lƣợng sản phẩm và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.

– Việc ban hành các Nghị định, Thông tƣ hƣớng dẫn thi hành Luật Khoa
học và Công nghệ còn thiếu và chƣa đồng bộ, đặc biệt là Nghị định hƣớng
dẫn về cơ chế đầu tƣ, tài chính cho hoạt động khoa học công nghệ chƣa đƣợc
ban hành đã ảnh hƣởng rất nhiều đến mục tiêu đổi mới cơ chế tài chính nhằm
thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ trên địa bàn tỉnh.

– Chƣa có chính sách thu hút cán bộ khoa học công nghệ có trình độ cao
(chuyên gia, tiến sỹ, giáo sƣ). Chƣa xây dựng đƣợc các chế độ đãi ngộ xứng
đáng cho đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học.

– Việc đầu tƣ cơ sở vật chất nhằm nâng cao năng lực hoạt động cho các
đơn vị sự nghiệp công lập để chuyển đổi theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP
của Chính phủ còn chƣa kịp thời. Cơ chế chính sách về hoạt động, cơ chế tài
chính còn thiếu và chƣa đồng bộ (vốn, chính sách thuế, khấu hao tài sản…).
Từ đó ảnh hƣởng đến khả năng tự cân đối thu chi hoạt động tài chính của đơn
vị sau chuyển đổi.