Nhiệm vụ và mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp | Vân Nguyên

Mọi doanh nghiệp đều có mục đích và lý do tồn tại của mình và nó thường được thể hiện rõ trong nhiệm vụ và mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp. Nhiệm vụ và mục tiêu chiến lược là căn cứ để đưa ra các quyết định chiến lược, tạo ra trọng tâm và định lượng cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Trong bài này, chúng ta sẽ đề cập đến nội dung và cách xác định nhiệm vụ chức năng của doanh nghiệp, tầm nhìn, triết lý kinh doanh và các mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp.

Nhiệm vụ của doanh nghiệp

Nhiệm vụ của doanh nghiệp là mục đích hoạt động chính của doanh nghiệp nhằm phân biệt đặc trưng của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành kinh doanh. Nhiệm vụ chiến lược của doanh nghiệp bao hàm các nguyên tắc kinh doanh, mục đích, triết lý và tôn chỉ hoạt động hoặc các quan điểm của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định, thậm chí trong suốt cả quá trình hoạt động của doanh nghiệp.

Nội dung cơ bản của nhiệm vụ bao gồm việc xác định ngành kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp; công bố các mục tiêu phát triển chủ đạo và triết lý hay tôn chỉ hoạt động của doanh nghiệp.

Nhiệm vụ chiến lược xác định rõ lĩnh vực kinh doanh chính của doanh nghiệp, thông thường đó là sản phẩm cơ bản hoặc loại hình dịch vụ chính, các nhóm khách hàng uy tín, nhu cầu thị trường… Nội dung chức năng nhiệm vụ thường bao gồm những vấn đề bao quát hơn về những điều mong muốn có được bên ngoài doanh nghiệp như uy tín của doanh nghiệp.

Để xác định ngành kinh doanh của doanh nghiệp có thể căn cứ bởi ba khía cạnh: nhóm khách hàng cần thỏa mãn? nhu cầu nào của khách hàng cần được đáp ứng? và đáp ứng nhu câu đó bằng cách nào? (bằng những sản phẩm, nguồn lực công nghệ hoặc một kỹ năng độc đáo nào?)

Trên thực tế, nhóm khách hàng cụ thể có thể được phục vụ theo nhiều phương thức khác nhau. Xác định những phương thức thỏa mãn khách hàng thông qua cách xác định ngành kinh doanh định hướng vào khách hàng có thể giúp cho doanh nghiệp tránh được rủi ro do không nhận thức được sự chuyển dịch của nhu cầu, thậm chí còn giúp cho doanh nghiệp dự đoán xu hướng chuyển dịch trong tương lai, giúp cho doanh nghiệp có thể năng động hơn và chủ động hơn. Khi xác định ngành kinh doanh còn phải xác định được triển vọng của ngành đó ra sao và làm thế nào để nhập ngành.

Tầm nhìn và mục đích chủ đạo của doanh nghiệp là lời tuyên bố công khai và chính thức về những gì doanh nghiệp nỗ lực vươn tới. Việc xác định rõ tầm nhìn và mục đích chủ đạo sẽ định hướng cho việc hoạch định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường, tầm nhìn thể hiện rõ ràng những tham vọng mà doanh nghiệp theo đuổi và lôi cuối sự nỗ lực của toàn doanh nghiệp.

Triết lý kinh doanh thể hiện những niềm tin cơ bản; giá trị, khát vọng, thứ tự ưu tiên và những tư tưởng cơ bản mà doanh nghiệp theo đuổi và gắn bó làm định hướng cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Nó cho biết doanh nghiệp dự định tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh như thế nào và thường phản ánh thái độ của doanh nghiệp đối với trách nhiệm xã hội và đạo đức kinh doanh. Bởi vậy, lời tuyên bố về triết lý kinh doanh của doanh nghiệp có thể tác động lớn đến cách thức kinh doanh và quyết định về chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Thậm chí có nhiều doanh nghiệp còn xây dựng những tôn chỉ hoạt động riêng của doanh nghiệp mình.

Đa số các doanh nghiệp ở Việt Nam chưa quen thuộc với việc công bố triết lý chủ đạo của doanh nghiệp hoặc thiết kế một bản tuyên bố nhiệm vụ và mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp, mặc dù những vấn đề này là những điều cần thiết cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay.

Như chúng ta đã biết:

Xác định rõ nhiệm vụ chiến lược của doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, bởi nó tạo ra sự nhất trí về đường lối, phương hướng hành động trong toàn doanh nghiệp; đảm bảo sự đồng tâm nhất trí trong nội bộ, thúc đẩy sự quyết tâm và nỗ lực của toàn thể nhân viên trong doanh nghiệp.

Khi xác định nhiệm vụ chiến lược cần xem xét: lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp; Quan điểm của ban giám đốc và các chủ sở hữu, hội đồng quản trị các nguồn lực hiện có và các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp; những vấn đề của môi trường kinh doanh và các đối tượng hữu quan.

Đối tượng hữu quan là các nhóm hoặc các cá nhân có những yêu cầu đòi hỏi nào đó đối với doanh nghiệp. Có thể chia ra làm hai loại – những đối tượng hữu quan trong nội bộ và những đối tượng hữu quan bên ngoài. Đối tượng hữu quan trong nội bộ là các cổ đông và nhân viên trong doanh nghiệp gồm cả các quản trị viên cấp cao và thành viên hội đồng quản trị. Đối tượng hữu quan bên ngoài là tất cả các cá nhân và tổ chức có chịu ảnh hưởng từ những hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là khách hàng, những người cung ứng, chính phủ, công đoàn, đối thủ cạnh tranh, cộng đồng địa phương và dân chúng nói chung.

Tất cả những đối tượng hữu quan đều có quyền chính đáng trông đợi rằng doanh nghiệp sẽ cố gắng thỏa mãn những yêu cầu đặc thù của họ. Các cổ đông cung cấp vốn cho doanh nghiệp và để đổi lại họ muốn có được một khoản lợi nhuận hợp lý từ số vốn ban đầu và bảo toàn vốn. Nhân viên có sức lao động và tay nghề phục vụ doanh nghiệp và họ muốn nhận được một phần thu nhập xứng đáng và sự hài lòng với nghề nghiệp.Các khách hàng muốn nhận được giá trị từ khoản tiền họ bỏ ra mua sản phẩm của doanh nghiệp. Nhà cung ứng tìm kiếm khách hàng đáng tin cậy. Chính quyền đòi hỏi doanh nghiệp phải chấp hành nghiêm chinh luật lệ của Nhà nước. Tổ chức công đoàn thì đòi hỏi những phúc lợi cho các thành viên của mình tương xứng với sự đóng góp của họ cho doanh nghiệp. Các đối thủ muốn có sự cạnh tranh công bằng. Cộng đồng địa phương muốn các doanh nghiệp trên địa bản mình có các hành vi của những công dân kiểu mẫu. Công chúng nói chung tìm kiếm sự bảo đảm tăng chất lượng cuộc sống được bảo toàn và nâng cao cùng với sự tồn tại của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp phải tính đến những đòi hỏi này khi hoạch định chiến lược của mình, nếu không các nhóm đối tượng hữu quan sẽ có thể không ủng hộ doanh nghiệp.Cổ đông có thể sẽ bán cổ phiếu của họ đi, nhân viên bỏ việc, khách hàng sẽ mua sản phẩm ở nơi khác, nhà cung ứng sẽ ký kết hợp động với các doanh nghiệp khác đáng tin cậy hơn, trong khi chính quyền có thể tổ chức điều tra và khởi tố doanh nghiệp, công đoàn sẽ có thể tổ chức bãi công và trước một cuộc cạnh tranh không công bằng thì đối thủ có thể tự phản công hoặc đâm đơn kiện. Cộng đồng địa phương phản đối không cho xây dựng và lắp đặt các thiết bị trên địa bàn của họ và dân chúng nói chung có thể thiết lập các hiệp hội, tổ chức các phong trào chống lại các doanh nghiệp làm tổn hại đến môi trường và chất lượng cuộc sống. Bất cứ một hành động nào trong số kế trên đều có thể gây ra tác hại khôn lương cho doanh nghiệp.

Bản tuyên bố nhiệm vụ và mục tiêu chiến lược cho phép công ty kết hợp đòi hỏi của các nhóm đối tượng hữu quan vào trong các quyết định chiến lược của mình và như vậy sẽ giảm bớt rủi ro đánh mất sự ủng hộ của các nhóm này. Bản tuyên bố nhiệm vụ và mục tiêu chiến lược là sự cam kết công khai đối tượng hữu quan, nó truyền đi thông điệp là các chiến lược của Công ty có cân nhắc đến các yêu cầu của các nhóm khác nhau không, ở phần trên, chúng ta đã nói đến yêu sách của cổ động được thể hiện như thế nào trong bản tuyên bố nhiệm vụ và mục tiêu chiến lược, khi doanh nghiệp quyết định rằng mục đích chủ đạo của nó là tối đa lợi nhuận dài hạn. Bất kỳ chiến lược nào cũng sọan thảo cũng phải phản ánh được mục đích của chủ đạo này. Tượng tự, bản tuyên bố nhiệm vụ chiến lược cẩn thể hiện rõ những yêu sách của các nhóm đối tượng hữu quan khác, có thể trong mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn và trong triết lý kinh doanh của doanh nghiệp.

Mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp

Thực chất của các mục tiêu chiến lược là một cái đích hoặc một kết quả nào đó mà doanh nghiệp mong muốn đạt được trong một thời kỳ.

Trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển của doanh nghiệp, bước xác định các mục tiêu chiến lược là khâu mở đầu và rất quan trọng. Bởi vì có xác định được các mục tiêu chiến lược một cách đúng đắn và hợp lý mới có định hướng chỉ đạo cho các giai đoạn tiếp sau của tiến trình chiến lược. Hơn nữa, nó cũng là một trong những căn cứ để cung cấp các nguồn lực kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh chiến lược. Mục tiêu chiến lược phát triển doanh nghiệp là sự cụ thể hóa của tính mục đích của doanh nghiệp về hướng, quy mợ có cấu và tiến trình triển khai theo thời gian.

Các mục tiêu có tác động đến chiến lược tùy theo mục đích theo đuổi: thâm nhập phần trên thị trường hoặc bổ sung tự cấp phát tài chính… Chính sự khác nhau của sự tác động đó là cơ sở của những hoạt động chiến lược khác nhau nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược.

Cần phải phân biệt giữa các mục tiêu chiến lược cũng như mục tiêu cùng với dự đoán. Một dự đoán là một chỉ dẫn cái có thể đạt được trong hoạt động tương lai có tính đến hoạt động trong quá khứ của doanh nghiệp. Dự đoán dựa trên sự tính toán, nhưng nhìn chung nó biểu hiện một xu hướng. Chẳng hạn, dự đoán bản hàng để ước tính doanh số của doanh nghiệp. Cụ thể hơn là dựa vào mức bán của quá khứ và giả định môi trường ổn định, nghĩa là không có thêm đợi thủ nào trên thị trường giá cả ổn định. Trong khi đó mục tiêu đưa doanh nghiệp đến chỗ năng động hơn, tự nguyện hơn và có tổ chức hơn.

Các yêu cầu khi xác định hệ thống mục tiêu chiến lược

Đối với một doanh nghiệp có rất nhiều mục tiêu được xác định trong từng thời kỳ tương ứng tạo thành một hệ thống mục tiêu chiến lược. Đó là những mục tiêu về lợi nhuận, doanh thu, vị trí cạnh tranh, năng suất, thâm nhập thị trường mới, đổi mới, an toàn, tính độc lập…

Tùy theo góc độ quan sát hoặc cách tiếp cận lý thuyết được sử dụng, việc hình thành các mục tiêu được thực hiện theo các đường Iối khác nhau. Song cho dù tiến hành theo phương pháp nào thì việc xác định hệ thống mục tiêu phải đảm bảo được các yêu cầu sau:

  • Các mục tiêu phải đảm bảo tính liên kết tương hỗ lẫn nhau. Mục tiêu này không cản trở mục tiêu khác. Chẳng hạn, không vì mục tiêu lợi nhuận tối đa mà ảnh hưởng đến mục tiêu thâm nhập thị trường mới. Cũng vậy phải kết hợp hợp lý mục tiêu của các cổ đông, của các nhà lãnh đạo của tổ chức công đoàn cũng như bộ khung quản lý doanh nghiệp.
  • Phải xác định rõ mục tiêu ưu tiên. Điều đó thể hiện tính cấp bậc của hệ thống mục tiêu. Như vậy có mục tiêu cần được ưu tiên đã được xác định và nhất trí thì trong quá trình lựa chọn và cung cấp các nguồn lực cho nó cũng sẽ được đảm bảo tương ửng.
  • Luôn luôn có sự cân đối giữa khó khăn và thực tại. Một mục tiêu dễ dàng không phải là một yếu tố động lực. Cũng vậy một mục đích phi thực tế dẫn tới nản lòng những người thực hiện. Do vậy, cần phải tôn trong sự gắn bó bên trong giữa các mục tiêu.
  • Cuối cùng, mục tiêu phải được người thực hiện chấp nhận và thấu hiểu đầy đủ. Sự tham gia của những người thực hiện vào quá trình hình thành và quyết định mục tiêu giúp cho họ hiểu biết cặn kê và sẽ là cơ sở quan trọng cho tiến trình thực hiện sau này.

6 tính chất của mục tiêu chiến lược doanh nghiệp

Thông thường, mọi mục tiêu đúng đắn đều phải đáp ứng 6 tính chất sau đây: tính cụ thể, tính linh hoạt, tính định lượng, tính khả thi, tính nhất quán, tính hợp lý (chấp nhận được). Tuy các tiêu thức này liên quan một cách trực tiếp hơn đến chỉ tiêu ngắn hạn và chỉ tiêu dài hạn, song nhìn chung, chức năng nhiệm vụ cũng phải phù hợp với các tiêu thức đó.

Tính cụ thể

Một mục tiêu đúng đắn phải là một mục tiêu cụ thể. Nó phải chỉ rõ mục tiêu liên quan đến những vấn đề gì, giới hạn thời gian thực hiện và kết quả cụ thể cuối cũng cần đạt được. Mục tiêu càng cụ thể thì càng dễ hoạch định chiến lược thực hiện mục tiêu đó.

Tính linh hoạt

Các mục tiêu đề ra cần phải đủ linh hoạt để có thể điều chỉnh cho phù hợp với các nguy cơ và cơ hội thường xảy ra trong điều kiện môi trường. Tuy nhiên, cần lưu ý tăng mức độ linh hoạt thường tăng theo mức độ cụ thể của mục tiêu. Vì vậy, lãnh đạo cẩn thận trong khi điều chỉnh mục tiêu và phải có những thay đổi tương ứng trong các chiến lược liên quan cũng như kế hoạch hành động.

Tính định lượng

Khái niệm liên quan đến tính cụ thể bao hàm cả tính đo được của mục tiêu. Để thỏa mãn tính đo được, các mục tiêu cần phải được định ra dưới dạng các chỉ tiêu có thể đánh giá hoặc định lượng được. Đây là một điều quan trọng vì về sau các mục tiêu đề ra là các tiêu chuẩn để kiểm tra, đánh giá thành tích của doanh nghiệp.

Tỉnh khả thi

Nội dung mục tiêu phải đặt ra thử thách đối với ban lãnh đạo và cóng nhân viên, nhưng chúng cũng phải sát thực và có thể đạt được. Muốn xem một chỉ tiêu đề ra có tính khả thi hay không, có thể tiến hành phân tích dự báo một số dữ kiện về điều kiện môi trường. Nếu đưa ra mục tiêu không thể thực hiện được thì ít ra cũng mất thì giờ một cách vô ích và thực tế có thể phản tác dụng.

Tính nhất quán

Các mục tiêu đề ra phải thống nhất với nhau. Tính nhất quán có nghĩa là các mục tiêu phải phù hợp với nhau, nhất là việc hoàn thành một mục tiêu nào đó không được cản trở việc hoàn thành các mục tiêu khác.

Tính hợp lý (tính chấp nhận được)

Một mục tiêu đúng là mục tiêu được những người chịu trách nhiệm thực hiện và các đối tượng hữu quan chủ chốt chấp hành. Tính hợp lý thể hiện một cách gián tiếp và dẫn đến sự cam kết thực hiện của lãnh đạo và công nhân viên. Cả hai đối tượng này có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra.

Tính cấp bậc của các mục tiêu chiến lược và vai trò của chúng

Tùy theo phạm vi bao quát, các mục tiêu chiến lược kinh doanh doanh nghiệp được xếp theo thứ bậc. Trên hết là mục tiêu tổng quát hay mục tiêu bao trùm của doanh nghiệp. Mục tiêu này liên quan đến hướng phát triển chủ yếu đến hình tương lai của doanh nghiệp. Mục tiêu này giúp phác thảo các hướng chiến lược có bản của doanh nghiệp.

Thứ bậc tiếp theo của mục tiêu chiến lược phát triển doanh nghiệp là các mục tiêu hiệu quả tổng hợp (tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ doanh lợi…), các mục tiêu về các nguồn lực (nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực, nguồn tài chính…). đó là hệ thống nối giữa chiến lược và thực hành kinh doanh.

Thông qua hệ thống kế hoạch, chương trình ngắn hạn, các mục tiêu chiến lược về hiệu quả và nguồn lực cụ thể hoá cho các chức danh đứng đầu các bộ phận chức năng và lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Nói cách khác, các mục tiêu riêng biệt theo chức năng và lĩnh vực được dùng để thiết lập các kế hoạch thực thi chiến lược ở mọi lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp.

Trong phạm vi doanh nghiệp, hệ thống mục tiêu chiến lược có vai trò quan trong trong các mặt: Định hướng sự phát triển dài hạn của doanh nghiệp; Căn cứ để phân bổ các nguồn lực thực hiện các mục tiêu kinh doanh; Căn cứ để xác định và lựa chọn các phương án kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.

Mặc dù các nhiệm vụ và mục tiêu chiến lược phải tương đối ổn định, song không có nghĩa là chúng được viết ra một cách bất di bất dịch. Do nhiều yếu tố như công nghệ mới, quy định mới của Nhà nước, những đòi hỏi, yêu sách của các đối tượng hữu quan khác nhau nên các mục tiêu chiến lược cũng có thể bị lỗi thời. Do đó doanh nghiệp cần phải có những thay đổi và điều chỉnh cần thiết cho phù hợp với điều kiện hoạt động của doanh nghiệp.

Đánh giá