Nhân văn là gì? Lối sống nhân văn và chủ nghĩa nhân văn?
Nhân văn là gì? Nhân văn trong tiếng Anh tên là gì? Lối sống nhân văn? Nội dung liên quan đến chủ nghĩa nhân văn?
Sinh viên khoa nhân văn học về sự trỗi dậy và sụp đổ của các đế chế, ngôn ngữ cổ đại và hiện đại, và thơ ca của thời kỳ lãng mạn. Là một phần cốt lõi của nền giáo dục nghệ thuật tự do, khoa học nhân văn nghiên cứu văn học, quá khứ, văn hóa và các giá trị con người. Trong khi học về các chủ đề này, các sinh viên chuyên ngành nhân văn cũng củng cố kỹ năng nghiên cứu, viết và tư duy phản biện của họ. Nhưng nhân văn là gì? Và những lối sống nhân văn và chủ nghĩa nhân văn? Hãy tìm hiểu nội dung này trong bài viết dưới đây:
Luật sư tư vấn luật miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568
1. Nhân văn là gì?
Khoa học nhân văn liên quan đến việc nghiên cứu thế giới con người và xã hội từ góc độ phê phán. Lĩnh vực này bao gồm các chuyên ngành phổ biến như tiếng Anh, lịch sử và triết học. Trong các ngành này, sinh viên điều tra bản thân nhân loại (do đó có tên), áp dụng các phương pháp phê bình để giúp họ hiểu văn học, nghệ thuật và quá khứ, cũng như đạo đức, văn hóa và các giá trị của con người.
Nhân văn là ngành học nghiên cứu các khía cạnh của xã hội và văn hóa con người. Trong thời kỳ Phục hưng, thuật ngữ này tương phản với thần thánh và dùng để chỉ những gì ngày nay được gọi là kinh điển, lĩnh vực chính của nghiên cứu thế tục trong các trường đại học vào thời điểm đó. Ngày nay, khoa học nhân văn được định nghĩa thường xuyên hơn là bất kỳ lĩnh vực nghiên cứu nào ngoài đào tạo chuyên môn, toán học và khoa học xã hội và tự nhiên.
Khoa học nhân văn sử dụng các phương pháp chủ yếu là phê phán, hoặc suy đoán, và có yếu tố lịch sử quan trọng – được phân biệt với các phương pháp tiếp cận chủ yếu thực nghiệm của khoa học tự nhiên, tuy nhiên, không giống như các khoa học, nó không có kỷ luật trung tâm. Các ngành khoa học nhân văn bao gồm nghiên cứu ngôn ngữ cổ đại và hiện đại, văn học, triết học, lịch sử, khảo cổ học, nhân chủng học, địa lý nhân văn, luật, tôn giáo, và nghệ thuật.
Các học giả trong khoa học nhân văn là “học giả nhân văn” hoặc nhà nhân văn. Thuật ngữ “nhà nhân văn” cũng mô tả vị trí triết học của chủ nghĩa nhân văn, điều mà một số học giả “phản nhân văn” trong khoa học nhân văn bác bỏ. Các học giả và nghệ sĩ thời Phục hưng còn được gọi là những người theo chủ nghĩa nhân văn. Một số trường trung học cung cấp các lớp nhân văn thường bao gồm văn học, nghiên cứu toàn cầu và nghệ thuật.
Các bộ môn về con người như lịch sử, dân gian học và nhân học văn hóa nghiên cứu các vấn đề mà phương pháp thực nghiệm thao tác không áp dụng được – và thay vào đó chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh và nghiên cứu so sánh. Các phương pháp khác được sử dụng trong khoa học nhân văn bao gồm thông diễn học và phê bình nguồn.
Mỗi ngành khoa học nhân văn dựa trên các phương pháp giải thích độc đáo. Các nhà sử học sử dụng phương pháp lịch sử, có thể được chia thành nhiều nhánh như lịch sử văn hóa, lịch sử định lượng và lịch sử truyền miệng.
Trong khi đó, tiếng Anh và ngoại ngữ sử dụng phê bình văn bản để giải thích các nguồn, và triết học áp dụng phương pháp phân tích khái niệm và thực nghiệm.
Xem thêm: Yếu tố văn hóa, lối sống tác động đến hoạt động thực hiện pháp luật
2. Nhân văn trong tiếng Anh tên là gì?
Nhân văn trong tiếng Anh tên là: “Humanities”.
Xem thêm: Phẩm chất chính trị đạo đức lối sống của một người Đảng viên
3. Lối sống nhân văn?
Trên thực tế thì khi một con người có lối sống nhân văn, họ sẽ có những biểu hiện như sau:
– Luôn sống chân thật với cảm xúc của mình
– Sống độ lượng, vị tha, khoan dung
– Yêu cái đẹp, yêu thiên nhiên và mong muốn khắc phục, giải thích thiên nhiên
– Ngợi ca phẩm chất con người
– Khát vọng công lý
Lối sống nhân văn là việc có một thế giới quan có đạo đức nhưng không chỉ là một thế giới quan vô thần hay bất khả tri. Đối với nhiều người không theo tôn giáo, quan điểm sống đóng khung câu trả lời cho cái gọi là “câu hỏi cuối cùng” về cuộc sống giống như cách mà tôn giáo làm đối với các tín đồ. Chủ nghĩa nhân văn cam kết sâu sắc trong việc bảo vệ Nhân quyền. Cho rằng đây là cuộc sống duy nhất mà chúng ta có, những người theo chủ nghĩa nhân văn tin rằng mọi người nên có quyền tự do để sống nó theo niềm tin của chính họ. Do đó, chủ nghĩa nhân văn bảo vệ quyền cho mọi người được lựa chọn niềm tin, giá trị và lối sống của riêng mình, chỉ tùy thuộc vào việc họ không can thiệp vào quyền của người khác.
Trong lối sống nhân văn thì ở đây sẽ không giáo điều. Nó không có cuốn sách nguồn về các quy tắc không thể nghi ngờ, không có các nhà lãnh đạo để xác định học thuyết không thể sai lầm, không có câu trả lời dứt khoát. Chủ nghĩa nhân văn hoàn toàn khác với những tôn giáo và hệ tư tưởng tìm cách áp đặt lên người khác tầm nhìn của chính họ về chân lý hoặc quan niệm của họ về “sống đúng đắn”. Do đó, bạn không chính thức chuyển đổi sang chủ nghĩa Nhân đạo. Thay vào đó, hầu hết mọi người trở thành những người theo chủ nghĩa nhân văn mà không cần liên hệ với bất kỳ tổ chức nhân văn nào, đôi khi thậm chí không biết từ đó.
Lối sống nhân văn được khẳng định là một quan điểm sống dân chủ và đạo đức khẳng định rằng con người có quyền và trách nhiệm mang lại ý nghĩa và hình dạng cho cuộc sống của mình. Chủ nghĩa nhân văn là viết tắt của việc xây dựng một xã hội nhân văn hơn thông qua một nền đạo đức dựa trên con người và các giá trị tự nhiên khác trên tinh thần lý trí và tự do tìm hiểu thông qua năng lực của con người. Nó không phải là hữu thần, và nó không chấp nhận những quan điểm siêu nhiên về thực tại.
Xem thêm: Quy định về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của giáo viên
4. Nội dung liên quan đến chủ nghĩa nhân văn?
Từ “chủ nghĩa nhân văn” bắt nguồn từ khái niệm tiếng Latinh là humantas, lần đầu tiên được Cicero sử dụng để mô tả các giá trị liên quan đến giáo dục khai phóng, tương tự như nghệ thuật, triết học, lịch sử và văn học thế kỷ 21. Từ này xuất hiện trở lại trong thời Phục hưng Ý với tên gọi umanista và được sử dụng trong ngôn ngữ tiếng Anh vào thế kỷ 16. Từ “nhà nhân văn” được dùng để mô tả một nhóm sinh viên theo học văn học cổ điển và những người ủng hộ nền giáo dục dựa trên nó. Vào đầu thế kỷ 19, thuật ngữ chủ nghĩa nhân văn được sử dụng ở Đức với nhiều nghĩa và từ đó, nó tái nhập vào ngôn ngữ tiếng Anh với hai ký hiệu riêng biệt; “
Có thể nhà thần học người Bavaria Friedrich Immanuel Niethammer đã đặt ra thuật ngữ thuyết nhân bản để mô tả chương trình giảng dạy cổ điển mới mà ông dự định cung cấp ở các trường trung học ở Đức. Ngay sau đó, các học giả khác như Georg Voigt và Jacob Burckhardt đã chấp nhận thuật ngữ này. Trong thế kỷ 20, từ này đã được tinh chỉnh hơn nữa, có được ý nghĩa đương thời của nó là cách tiếp cận cuộc sống theo chủ nghĩa tự nhiên, tập trung vào hạnh phúc và tự do của con người.
Chủ nghĩa nhân văn là một lập trường triết học đề cao tiềm năng và quyền tự quyết của con người và xã hội. Nó coi con người là điểm khởi đầu cho sự tìm hiểu nghiêm túc về đạo đức và triết học.
Ý nghĩa của thuật ngữ “chủ nghĩa nhân văn” đã thay đổi theo các phong trào trí tuệ liên tiếp đã đồng nhất với nó. Nói chung, thuật ngữ này đề cập đến sự tập trung vào hạnh phúc của con người và ủng hộ quyền tự do, tự chủ và tiến bộ của con người. Nó xem nhân loại có trách nhiệm thúc đẩy và phát triển các cá nhân, tán thành phẩm giá bình đẳng và vốn có của tất cả con người, đồng thời nhấn mạnh mối quan tâm của con người trong mối quan hệ với thế giới.
Bắt đầu từ thế kỷ 20, các phong trào nhân văn thường phi tôn giáo và phù hợp với chủ nghĩa thế tục. Thông thường, chủ nghĩa nhân văn đề cập đến quan điểm vô thần tập trung vào quyền tự quyết của con người, và dựa vào khoa học và lý trí hơn là sự mặc khải từ một nguồn siêu nhiên để hiểu thế giới. Những người theo chủ nghĩa nhân văn có xu hướng ủng hộ nhân quyền, tự do ngôn luận, các chính sách tiến bộ và dân chủ. Những người có thế giới quan nhân văn coi tôn giáo không phải là điều kiện tiên quyết của đạo đức, và phản đối việc tôn giáo bị cuốn theo giáo dục và nhà nước quá mức. Theo các nhà nhân văn, con người có thể tự định hình giá trị của mình, sống tốt và có ý nghĩa.
Nguồn gốc của những tư tưởng nhân văn ở phương Tây phần lớn có thể bắt nguồn từ triết học Hy Lạp cổ đại, vốn ưu tiên đạo đức con người, nhưng những quan niệm và ý tưởng tương tự cũng được thể hiện ở những nơi khác trong thế giới cổ đại, chẳng hạn như Ấn Độ cổ đại, Na Uy, Nam Phi và Trung Quốc. Trong thời kỳ Phục hưng châu Âu, mối quan tâm đến văn học cổ điển từ Hy Lạp đã được đổi mới và những ý tưởng nhân văn bắt đầu phát triển trở lại. Những tiến bộ trong khoa học, công nghệ và triết học trong thời kỳ Khai sáng đã thúc đẩy thế giới quan thế tục, tạo ra nhiều hiệp hội và phong trào hợp lý và đạo đức trong thế kỷ 19, một số hợp nhất để tạo thành các hiệp hội nhân văn thế tục vào thế kỷ 20.
Chủ nghĩa nhân văn bảo vệ các đức tính công dân của nền dân chủ kết hợp quyền tự do cá nhân với trách nhiệm xã hội. Chủ nghĩa nhân văn coi trọng nghệ thuật thỏa hiệp là phương pháp tốt nhất để đạt được sự đồng thuận xã hội, và do đó cam kết hướng tới một tầm nhìn toàn diện và đa nguyên về xã hội mặc dù sự khác biệt nào được thừa nhận là sức mạnh và sự khác biệt được giải quyết thông qua tranh luận và lập luận hợp lý.
Chủ nghĩa nhân văn tượng trưng cho sự khoan dung và cởi mở với người khác: nó không ngừng cố gắng xây dựng cầu nối giữa các tín ngưỡng, nền văn hóa và lực lượng chính trị khác nhau. Do đó, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa chính thống tôn giáo hoặc các ý kiến độc quyền không có chỗ đứng trong Chủ nghĩa Nhân văn. Chủ nghĩa nhân văn hoàn toàn đối lập với bất kỳ hệ thống tư tưởng nào nhấn mạnh sự khác biệt và thúc đẩy chúng một cách giả tạo nhằm cố gắng thiết lập sự thống trị về hệ tư tưởng.
Chủ nghĩa nhân văn đề cao khoa học và sự tìm hiểu hợp lý như những phương tiện để khám phá ra sự thật. Các nhà nhân văn tin rằng giải pháp cho các vấn đề của thế giới nằm trong suy nghĩ và hành động của con người, được thúc đẩy bởi bằng chứng khoa học và sự đổi mới hơn là sự can thiệp của thần thánh. Chủ nghĩa nhân văn bác bỏ những lập luận siêu nhiên và giáo điều để giải thích vũ trụ hay mục đích sống của con người. Nó đề cao ý tưởng rằng mọi người có thể sống một cuộc sống có đạo đức và viên mãn bằng lý trí, sự đồng cảm và sự hợp tác của con người.