Năm 2019: 45% doanh nghiệp FDI báo lãi

Năm 2019, mặc dù quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (DN) FDI tăng 11,2%, vốn chủ sở hữu tăng 15,3%, vốn đầu tư tăng 14,3%, song chỉ có 45% DN trong số 22.603 DN FDI báo lãi, và có tới 66% số DN lỗ lũy kế.

FDI

66% doanh nghiệp FDI lỗ luỹ kế 520.742 tỷ đồng

Bộ Tài chính vừa báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ về kết quả tổng hợp và phân tích báo cáo tài chính năm 2019 của các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Báo cáo này dựa trên số liệu báo cáo của cơ quan thuế và các sở tài chính, cho biết số DN FDI chi phối đủ dữ liệu để phân tích là 22.603 DN, chiếm 99,9% trong tổng số 22.617 DN có vốn FDI chi phối và bằng 90,2% trong tổng số 25.054 DN FDI tính đến thời điểm cuối năm 2019.

Theo báo cáo này, quy mô sản xuất kinh doanh của DN FDI năm 2019 tiếp tục tăng cao, đạt 7.181.000 tỷ đồng, tương đương tăng 11,2% so với năm 2018. Tổng tài sản đạt 7.752.323 tỷ đồng, tăng 14,5%. Vốn chủ sở hữu đến cuối năm 2019 là 3.089.521 tỷ đồng, tăng 15,3%. Vốn điều lệ của nhóm DN này đạt 2.083.034 tỷ đồng, tăng 14,3% so với cuối năm 2018.

Về kết quả kinh doanh, lợi nhuận trước thuế của các DN này đạt 387.064 tỷ đồng, tăng 8,2% so với năm 2018. Lợi nhuận sau thuế năm 2019 đạt 324.487 tỷ đồng, tăng 6,4%. Nhóm các ngành mà DN FDI có tỷ suất lợi nhuận tốt gồm sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy và xe có động cơ khác; công nghiệp chế biến thực phẩm; rượu, bia, nước giải khát; dịch vụ hỗ trợ kinh doanh; phân phối, bảo dưỡng ôtô xe máy; và nhóm y tế, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ.

Số DN FDI báo lãi là 9.494 DN (45%), tăng 18% so với năm 2018, với giá trị lãi là 518.509 tỷ đồng. Một số ngành có sự gia tăng lợi nhuận trước cả về số tuyệt đối và tương đối gồm là “sản xuất, phân phối, kinh doanh điện” tăng 96,1% và “dịch vụ khác” tăng 211,8%.

Trong khi đó, có tới 12.455 DN báo lỗ, chiếm tỷ lệ 55%, với giá trị lỗ là 131.445 tỷ đồng. Tổng doanh thu của số DN này đạt khoảng 847.000 tỷ đồng, tăng gần 12,7% so với năm 2018. Đến hết năm 2019 có 14.822 DN lỗ lũy kế (bằng 66% số DN báo cáo) với tổng số lỗ là 520.742 tỷ đồng, bằng 41% vốn đầu tư của chủ sở hữu và tăng 26% về số DN có lỗ lũy kế, tăng hơn 23% về số vốn lỗ so với năm 2018. Một số nhóm ngành trong 2 năm liền có số liệu tổng hợp là lỗ trước và sau thuế, số lỗ năm trước nhiều hơn năm sau là “sản xuất sắt thép và kim loại khác” và “dầu khí, xăng dầu, nhiên liệu và sản phẩm hoá dầu”, “viễn thông, phần mềm”.

Bộ Tài chính cũng cho biết, có khoảng 3.545 DN lỗ mất vốn trong năm 2019, chiếm gần 15,7% và tăng 24,2% so với năm 2018. Trong số này, có 2.160 DN vẫn báo cáo tăng trưởng doanh thu.

Ưu đãi đầu tư theo quy mô và địa bàn chưa phát huy hiệu quả

Đánh giá chung, Bộ Tài chính cho rằng độ tăng trưởng doanh thu, tài sản và vốn đầu tư của chủ sở hữu tuy thấp hơn những năm trước nhưng vẫn duy trì ở mức cao, cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của DN FDI vẫn duy trì được tăng trưởng ổn định. DN FDI đóng góp ngày càng cao vào ngân sách nhà nước, (số nộp ngân sách và kim ngạch xuất nhập khẩu tăng đều qua các năm) cho thấy DN FDI có vai trò quan trọng hơn vào phát triển kinh tế xã hội (KTXH) trong nước.

Tuy vậy, hiệu quả sử dụng tài sản, sử dụng vốn đầu tư tại các DN FDI vẫn còn thấp, chưa phát huy hết tiềm lực, nộp ngân sách chưa tương xứng với ưu đãi được hưởng. Nhiều DN có số lỗ lớn và lỗ liên tục trong nhiều năm, số DN có lãi ít, mới đạy 45%. Nhiều dự án hiệu quả chưa cao, mức độ đóng góp ngân sách thấp.

Đặc biệt, đầu tư nước ngoài tập trung lớn tại các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ, một số tỉnh đồng bằng sông Hồng và rất hạn chế tại một số tỉnh miền núi phía Bắc hay một số tỉnh Tây Nguyên cho thấy chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư của Chính phủ vào địa bàn KTXH đặc biệt khó khăn và khó khăn chưa phát huy hiệu quả trong việc thu hút các dự án FDI.

Bên cạnh đó, hiện tượng chuyển giá, trốn thuế vẫn diễn ra ở một số DN FDI. DN luôn báo lỗ thậm chí lỗ liên tục nhiều năm nhưng vẫn mở rộng sản xuất kinh doanh, doanh thu các năm đều tăng, gây thất thoát, thiệt hại cho ngân sách nhà nước.

Kiến nghị về chính sách thu hút đầu tư nước ngoài giai đoạn tới, Bộ Tài chính kiến nghị giao Bộ KHĐT tiếp tục nghiên cứu, đánh giá thận trọng về chính sách ưu đãi đầu tư theo quy mô dự án đầu tư và theo địa bàn KTXH, đồng thời cần nghiên cứu và đề xuất chính sách thu hút trong thời gian tới để phù hợp với quan điểm chỉ đạo “Chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu” theo Nghị quyết 50-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Tính theo quốc gia, vùng lãnh thổ, nhóm DN có vốn FDI của các nhà đầu tư đến từ châu Âu (Đan Mạch, Hà Lan, Pháp Luxembourg) có tổng hợp khả năng sinh lời cao nhất. Nhóm DN của các nước có vốn đăng ký vào Việt Nam lớn nhất gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, British Virgin Islands, có khả năng sinh lời ở mức hợp lý.

Tuy nhiên, hai nhà đầu tư nằm trong top 10 đầu tư lớn vào Việt Nam là Hong Kong, Trung Quốc lại có khả năng sinh lời thấp. Một số nước trong top 30 đầu tư lớn vào Việt Nam như Australia, Canada, Brunei, Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia thậm chí lỗ trước và sau thuế. Síp có 3 DN có vốn FDI tại Việt Nam thì có hai DN báo lỗ và lỗ mất vốn chủ sở hữu, 1 DN báo lãi, tổng hợp chung nhóm DN này có vốn chủ sở hữu âm.

Dương An