NHỮNG NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG CỦA CURCUMIN TRÊN THẾ GIỚI | Curcumin – Viên nang Curcumin | curcumin-vien-nang-curcumin
NHỮNG NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG CỦA CURCUMIN TRÊN THẾ GIỚI
1.Lịch sử nghiên cứu lâm sàng của curcumin:
Mặc dù lĩnh vực y tế sức khỏe có những nỗ lực đáng kể, tỷ lệ nhiễm bệnh phức tạp như bệnh tim mạch, bệnh chuyển hóa, ung thư và các bệnh thần kinh đã không giảm đáng kể trong những năm gần đây. Một số thuốc “thông minh” tác động một đích duy nhất (monotargeted) đã nổi lên trong thập kỷ qua; Tuy nhiên, các bệnh nói trên là do nhiễu loạn của nhiều đường tín hiệu. Như vậy, chỉ tấn công một đường (một đích) là rất khó để có hiệu quả ( 1 , 2 ). Ngoài ra, thuốc “thông minh” tác động một đích duy nhất (monotargeted) như vậy thường rất tốn kém và có thể gây nhiều tác dụng phụ. Những đặc điểm bất lợi của thuốc đơn đích nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tìm kiếm những chế độ ăn uống mà có tác động đa đích, không tốn kém, có sẵn hoặc giàu dinh dưỡng để phòng ngừa và điều trị bệnh cho người. Curcumin là một trong những ví dụ dinh dưỡng nghiên cứu rộng rãi lần đầu tiên được phát hiện khoảng hai thế kỷ trước bởi các nhà khoa học trong phòng thí nghiệm đại học Harvard Vogel và Pelletier từ thân rễ của Curcuma longa (turmeric) ( 3 , 4 ).
Curcumin lần đầu tiên được biết đến hoạt tính kháng khuẩn vào năm 1949 ( 5 ). Kể từ đó, polyphenol này đã được chứng minh là có tác dụng chống viêm, hạ đường huyết, chống oxy hóa, làm lành vết thương và chống vi khuẩn ( 6 ). Các nghiên cứu tiền lâm sàng rộng rãi trong ba thập kỷ qua đã chỉ ra tiềm năng điều trị của curcumin chống lại một loạt các bệnh cả phổ biến và hiếm gặp ( 7 ). Ngoài ra, chất curcumin đã được chứng minh tương tác trực tiếp với nhiều phân tử tín hiệu ( 8 ). Những thử nghiệm tiền lâm sàng đã thành lập một cơ sở vững chắc cho việc đánh giá hiệu quả các nghiên cứu lâm sàng của curcumin.
Những nghiên cứu lâm sàng của curcumin đối với các bệnh
Mặc dù việc sử dụng điều trị của Curcuma đã được ghi lại sớm nhất là năm 1748 ( 9 ), bài báo đầu tiên đề cập đến việc sử dụng curcumin trong bệnh nhân đã được xuất bản vào năm 1937 bởi Oppenheimer ( 10 ). Trong nghiên cứu này, các tác giả đã xem xét ảnh hưởng của hợp chất của curcumin với dạng “curcumen” hoặc “curcunat” có chứa 0,1 g đến 0,25 g natri curcumin và 0,1 g canxi cholate trong các bệnh đường mật của con người. Tiêm tĩnh mạch 5%, dung dịch natri curcumin trong người khỏe mạnh đã làm rỗng nhanh chóng túi mật. Các tài liệu chỉ rõ: điều trị 67 bệnh nhân cấp tính, tái phát, hoặc viêm túi mật mãn tính. Dùng uống dạng curcunat 3 tuần cho thấy kết quả tốt đối với viêm túi mật. Tất cả những bệnh nhân đã được chữa khỏi hoàn toàn bệnh trong suốt thời gian quan sát kéo dài 3 tháng, trong đó một bệnh nhân khỏi bệnh được quan sát trong thời gian đến hơn 3 năm mà không có tái phát. Không có tác động xấu đã được quan sát hoặc báo cáo, ngay cả khi thuốc được tiếp tục trong nhiều tháng liên tiếp ( 10 ). Kể từ khi xác định ban đầu này, con người đam mê tham gia những nghiên cứu lâm sàng của curcumin đã tăng lên đáng kể. Tính đến tháng 7 năm 2012, các quan sát từ gần 67 nghiên cứu lâm sàng của curcumin đã được công bố, trong khi đó 35 thử nghiệm lâm sàng khác đang được tiến hành.
Số nghiên cứu lâm sàng của curcumin đã công bố
2.Nghiên cứu lâm sàng của curcumin khi dùng một mình và kết hợp:
Nghiên cứu lâm sàng của curcumin trên người đã được tiến hành bao gồm: Sự an toàn, khả năng dung nạp, không phát hiện độc tố của curcumin dùng với liều lượng cao ( 3 , 4 ). Cá biệt có nhóm đã dùng 8g curcumin/ngày kết hợp với gemcitabine đã được chứng minh an toàn và dung nạp tốt ở bệnh nhân ung thư tuyến tụy ( 11 , 12 ). Các thử nghiệm lâm sàng được tiến hành cho đến nay đã chỉ ra khả năng chữa trị của curcumin chống lại một loạt các bệnh. Nó cũng đã thể hiện khả năng bảo vệ gan rất tốt: chống lại tác động nguy hiểm của nhiễm độc asen mãn tính và ngộ độc rượu. Trong các nghiên cứu lâm sàng của curcumin, chất này đã được sử dụng một mình hoặc kết hợp với các thuốc khác như quercetin, gemcitabine, piperine (Bioperine), docetaxel, isoflavones đậu nành (phosphatidylcholin), sulfasalazine, mesalamine, prednisone, lactoferrin, N -acetylcysteine và pantoprazole.
3.Cơ chế tác động của curcumin trong cơ thể người:
Làm thế nào mà một hoạt chất duy nhất có thể có những tác dụng khác nhau chính là một bí ẩn đối với cả các nhà khoa học cơ bản cũng như các bác sĩ lâm sàng trong những năm qua. Tuy nhiên, rất nhiều các bằng chứng đã chỉ ra khả năng của curcumin trong việc điều chỉnh nhiều tế bào phân tử tín hiệu như các cytokine tiền viêm (yếu tố hoại tử khối u [TNF] -α, interleukin [IL] -1β, IL-6), protein tự hủy, NF-κB, cyclooxygenase (COX) -2, STAT3, IKKβ, endothelin-1, malondialdehyde (MDA), C-reactive protein (CRP), prostaglandin E 2 , GST, PSA, VCAM1, glutathione (GSH), pepsinogen, phosphorylase kinase (PHK), thụ thể transferrin, cholesterol tổng, yếu tố tăng trưởng chuyển dịch (TGF) -β, triglyceride, creatinine, HO-1, chất chống oxy hóa, AST, ALT
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG CỦA CURCUMIN ĐỐI VỚI CƠ QUAN ĐÍCH
4.Hiệu quả điều trị của curcumin bị hạn chế do sinh khả dụng thấp và các giải pháp của nhà khoa học:
Mặc dù chất curcumin đã cho thấy khả năng chống lại nhiều bệnh nhưng hiệu quả điều trị của nó được chứng minh là rất hạn chế. Nguyên nhân sinh khả dụng curcumin kém là do kém hấp thu, chuyển hóa nhanh, và bị loại bỏ khỏi hệ thống nhanh chóng ( 75 ). Kết quả là, nhiều nỗ lực đã được thực hiện để cải thiện sinh khả dụng của curcumin bằng cách thay đổi các tính năng này. Việc sử dụng các chất phụ gia có thể ngăn chặn sự chuyển hóa của curcumin là chiến lược phổ biến nhất để tăng sinh khả dụng của curcumin. Hiệu quả của việc kết hợp piperine, một chất ức chế glucuronide hóa ở gan và ruột, được đánh giá trên sinh khả dụng của curcumin ở người tình nguyện khỏe mạnh ( 76 ). Ở người nhận liều 2g của curcumin một mình, nồng độ curcumin không phát hiện được hoặc phát hiện được rất thấp. Tuy nhiên nếu dùng đồng thời 20 mg piperine với curcumin, cho thấy được hấp thu nồng độ cao hơn nhiều trong vòng 30 phút đến 1 giờ sau khi điều trị bằng thuốc; như vậy piperine tăng sinh khả dụng của curcumin lên đến 2.000%.
Phương pháp tiếp cận đầy hứa hẹn khác để tăng sinh khả dụng của curcumin trong cơ thể người bao gồm việc sử dụng các hạt nano ( 73 ), liposome ( 77 ), phức hợp phospholipid – hay phytosome ( 78 ), và cấu trúc tương tự ( 75 ). Meriva® là một phức hợp phytosome đã được cấp bằng sáng chế của Hoa Kỳ, là sự kết hợp curcumin với phosphatidylcholine đậu nành có khả dụng sinh học tốt hơn so với curcumin. Sự hấp thu của một hỗn hợp curcuminoid và Meriva® đã được kiểm tra trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, nghiên cứu chéo ở người ( 78 ). Tổng số hấp thụ curcuminoid đối với hỗn hợp Meriva® là khoảng 29 – 31.5 lần cao hơn hỗn hợp curcuminoid không liên hợp tương ứng. Điều thú vị là, việc liên kết với phospholipid tăng sự hấp thu của demethoxylatedcurcuminoids hơn nhiều so với curcumin ( 78 ). Demethoxylatedcurcuminoids, còn gọi là curcumin II- là 1 trong 3 thành phần chính của curcumin, có công dụng trong điều trị viêm mạnh hơn curcumin I. Sinh khả dụng của curcumin cũng đã được chứng minh có sự tăng cường rất nhiều bằng cách tái lập curcumin với các thành phần phi curcuminoid của củ nghệ ( 79 ).
Curcumin phytosome, một dạng liên kết của curcumin với phosphotidylcholin, làm tăng sinh khả dụng của curcumin lên 31.5 lần
5.Nghiên cứu lâm sàng của curcumin được thực hiện trên cả người khỏe mạnh:
Hầu hết các nghiên cứu lâm sàng của curcumin đã được tập trung chủ yếu vào những người có vấn đề về sức khỏe. Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây, đánh giá hiệu quả đối với sức khỏe của curcumin (dạng lipid hóa) cho những người tham gia trung niên khỏe mạnh (40-60 tuổi). Trong nghiên cứu này, các thành viên tham gia đã được đưa ra hoặc là curcumin (dạng lipid hóa) 80mg/ngày hoặc giả dược trong 4 tuần. Curcumin làm giảm amylase trong nước bọt, hạ thấp triglyceride trong huyết tương, nâng cao năng lực nhặt rác (gốc tự do) triệt để trong nước bọt, nâng cao hoạt động catalase plasma, giảm nồng độ protein huyết tương beta amyloid, hạ thấp huyết tương SICAM, tăng myeloperoxidase plasma mà không tăng nồng độ protein C-reactive, tăng nitric oxide plasma, và giảm hoạt động alanine amino transferase plasma. Nhìn chung, các kết quả đã chứng minh tác dụng tăng cường sức khỏe của curcumin ở những người trung niên khỏe mạnh ( 80 ).
Tác động của curcumin trên thụ thể và enzyme
6.Ứng dụng các nghiên cứu lâm sàng của curcumin trên thực tế:
Mặc dù chất curcumin tương đối tinh khiết đã được sử dụng trong một số nghiên cứu trên người, hầu hết các nghiên cứu đã sử dụng hoặc là một hỗn hợp của curcuminoids hoặc thậm chí từ nghệ – nguồn gốc cung cấp curcuminoids. Khoảng 2% -6% (w/w) của củ nghệ là curcuminoids. Hỗn hợp curcuminoids này có chứa 80% curcumin (còn gọi curcumin I), 18% demethoxycurcumin (còn gọi curcumin II), và 2% bisdemethoxycurcumin (curcumin III). Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã phê duyệt curcumin là GRAS (công nhận là an toàn), và các polyphenol của nó hiện đang được sử dụng như là một thành phần bổ sung tại một số quốc gia ( 81 ). Nó được bán trên thị trường trong nhiều hình thức, bao gồm cả bột, cốm, viên nang, viên nén, thuốc mỡ, dung dịch uống, nước tăng lực, xà phòng và mỹ phẩm.
Các nghiên cứu chính được thực hiện trên các bệnh liên quan đến: xương khớp, gan mật, tiểu đường, viêm loét dạ dày tá tràng,đại tràng, ung thư (bao gồm ung thư tuyến tụy, ung thư đại trực tràng, ung thư tuyến tụy, ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư máu, ung thư phổi, ung thư miệng, ung thư biểu mô tế bào- tập trung chủ yếu tại niêm mạc miệng- họng- thanh quản…), bệnh viêm ruột, hội chứng ruột kích thích, viêm màng hồ đào, viêm giả u hốc mắt, bệnh bạch biến, bệnh vảy nến, bệnh Dejerine-Sottas là một hình thức thoái hóa nghiêm trọng của bệnh Charcot-Marie-Tooth – một rối loạn thần kinh, bệnh Alzheimer, hội chứng mạch vành cấp tính (ACS), bệnh xơ vữa động mạch, bệnh đái tháo đường, viêm thận lupus, ghép thận, rối loạn di truyền về máu, rối loạn vận động đường mật, co túi mật, tái phát nhiễm trùng đường hô hấp, nhiễm độc gan do asen- rượu, viêm tuyến tiền liệt mãn tính do vi khuẩn…
Trong các phần sau, chúng tôi sẽ tóm tắt các tài liệu nghiên cứu về hoạt động của curcumin chống lại từng bệnh cụ thể và cơ chế hoạt động của nó.
Kukumin IP – Dịch từ tài liệu nguyên bản tiếng Anh của Thư viện Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ (National Library of Medicine)http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3535097
(Còn tiếp)