Muc Vu – Switzerland

THẮC MẮC

HỎI:
Thưa cha, trong kinh Tin Kính, các tín hữu thường đọc:
“Chúa Giêsu Kitô chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây thánh giá, chết và táng xác. Xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại”.
Vậy ngục tổ tông là gì? Có phải là luyện ngục hay không? Hay là hỏa ngục hoặc một nơi đặc biệt nào khác?

G.V. Nguyễn

ÐÁP:
Thật ra, để sát với bản la tinh của Kinh Tin Kính là “descendit ad inferos”, chúng ta phải dịch là “Chúa Kitô xuống âm phủ”.

Sách giáo lý của HÐGM Ðức ghi nhận rằng: tín điều “Chúa Giêsu xuống âm phủ” là một chân lý thường bị con người thời nay quên lãng. Ðây là điều nghe rất lạ tai đối với nhiều tín hữu Kitô ngày nay và dường như họ không hiểu nổi. Câu nói “Chúa Giêsu xuống âm phủ” gợi lên trong tâm trí nhiều người thời đại khoa học văn minh hiện đại hình ảnh lỗi thời về một thế giới có ba tầng: tầng trời, trái đất và địa ngục (cf La foi de l’Eglise, Catéchisme pour adultes publié par la Confèrence Episcopale Allemande, Cerf, 1985, pp.190-191)

Từ “inferi” hoặc “enfers” trong câu tin kính trên đây không có nghĩa là hỏa ngục, địa ngục hay là tình trạng bị luận phạt, nhưng nó được dịch từ Sheol của Do Thái và Hadès của Hy lạp, có nghĩa là “nơi ở của người chết“, hay là “âm phủ“, “âm ty” (Cf Act 2, 31). Theo quan niệm của Kinh thánh, thì con người sau khi chết, sẽ sống trong Shéol, trong âm phủ. Bất hạnh của họ là không được thấy sự hiện diện của Thiên Chúa; họ có cảm tưởng phải sống xa Chúa và bị ngài bỏ rơi. Như thánh vịnh đã diễn tả:

“Chốn tử vong, ai nào nhớ Chúa; nơi âm phủ (shéol) ai ngợi khen ngài” (TV 6,6).

Hoặc thánh vịnh 88 (11-13):
Trong mồ mả, ai nói về tình thương của Chúa? Cõi âm ty, ai kể lại lòng thành tín của Ngài? Những kỳ công Chúa, nơi tối tăm ai rõ? Ðức công chính Ngài chốn quên lãng ai hay?” (TV 88, 11-13)

Giáo lý Công Giáo dạy rằng sau khi chịu chết, Chúa Giêsu xuống ngục tổ tông để mang ơn cứu độ cho các tổ phụ và những người lành thánh đã chết trước ngài. Truyền thống này của giáo hội dựa trên đoạn thư thứ I của Thánh Phêrô tông đồ:
“Chúa Giêsu đã chịu chết một lần để đền tội, Chúa là Ðấng Công Chính hy sinh cho kẻ gian ác, để dẫn chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Người đã chết về phần xác để sống về phần linh hồn. Nhờ linh hồn này, Người đã đến rao giảng cho các linh hồn đang bị giam trong ngục” (I Phêrô, 3, 18-19; 4,6).

Giáo huấn đó đã được diễn tả thành công thức “Chúa Giêsu xuống ngục tổ tông“, hoặc “Chúa Giêsu xuống âm phủ”, trước hết trong bản tuyên xưng đức tin Aquileia có vào cuối thế kỷ thứ 4 (Denz.Schoenm., 16), và sau đó được công đồng chung Laterano IV chấp nhận chung kết vào năm 1215, và công đồng chung Lyon II trong bản tuyên xưng đức tin của Michele Paleologo năm 1274.

Sách giáo lý chung của Giáo Hội công giáo cũng giải thích về tín điều Chúa Giêsu Kitô xuống địa ngục và khẳng định rằng:
“Những lời quả quyết thường xuyên của Tân Ước theo đó Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết (Act 3,15; Roma 8,11, 1 Cor 15,20) giả thiết rằng trước khi Chúa sống lại, Ngài đã ở trong thế giới của người chết.

Trong bài giảng đầu tiên ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, thánh Phêrô tông đồ đã nhắc lại Thánh vịnh 16 để quả quyết sự sống lại của Chúa:
“Con luôn nhớ có ngài trước mặt, được ngài ở bên, con chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư hát trong phần mộ.” (Act 2, 25-27)

Trong thư gửi các tín hữu thành Ephêsô, thánh Phaolô viết:
“Vì có lời chép rằng: Người lên trời cao đem theo các kẻ tù đầy. Người ban xuống cho loài người muôn vàn ơn phúc”.
Nói rằng: Người lên trời cao nghĩa là gì? Chẳng phải là trước đây Người đã xuống phần dưới của trái đất sao? Ðấng đã xuống, chính là Ðấng đã lên trên các tầng trời, để tràn ngập và thống trị vạn vật” (Ephêsô 4, 8-10). Sở dĩ thư này nói Chúa “xuống phần dưới của trái đất” là vì trái đất tiếp nhận xác con người sau khi chết, và như thế có nghĩa là đất cũng đã tiếp nhận thi hài của Chúa Kitô sau khi ngài từ trần trên đồi Can Vê. Chúa Giêsu đã qua kinh nghiệm thực sự của cái chết, và đã được an táng trong mồ.

Ðó là ý nghĩa đầu tiên những lời rao giảng của các tông đồ về việc Chúa Giêsu xuống âm phủ. Chúa Giêsu đã chịu chết giống như mọi người và linh hồn ngài đi vào nơi ở của những người chết. Nhưng ngài xuống địa ngục trong tư cách là Ðấng Cứu thế để rao giảng Tin mừng cho những linh hồn còn bị giam cầm trong đó.

“Tin mừng cũng được loan báo cho những người đã chết”, đó là lời thư của thánh Phêrô tông đồ (1 Phêrô 4, 6). Việc Chúa Giêsu xuống âm phủ là giai đoạn cuối cùng trong sứ mạng loan báo tin mừng cứu độ. Ngài xuống đó để những người chết được nghe tiếng Con Thiên Chúa và sau khi đã nghe thì họ được sống (Gioan 5, 25). Chúa Giêsu là Chúa của sự sống (Act 3, 15), qua cái chết của Ngài, Ngài đã làm cho kẻ có cường lực chết chóc, tức là ma quỷ trở nên bất lực, và ngài đã giải thoát tất cả những người suốt đời phải ở trong vòng nô lệ vì sợ cái chết (Do thái 2, 14-15). Từ nay, Chúa Kitô phục sinh đang nắm chìa khóa sự chết và âm phủ (Hadès) (Ap 1, 18) và “khi nghe tên Chúa Giêsu mọi đầu gối trên trời, dưới đất và âm phủ đều phải bái quì tôn kính” (Philipphê 2, 10).

Tóm lại, qua câu Tin Kính “Chúa Giêsu xuống âm phủ“, hay “xuống ngục tổ tông”, các tín hữu Kitô tuyên xưng rằng Chúa Giêsu đã chịu chết thực sự, và do cái chết của ngài vì chúng ta, ngài đã chiến thắng sự chết và ma quỷ là kẻ có quyền lực sự chết (Do thái 2, 14). Khi Chúa Kitô chịu chết, linh hồn Ngài kết hiệp với ngôi vị Thiên Chúa của ngài, Ngài xuống địa ngục là nơi cư ngụ của những người chết, để mở cửa trời cho những người công chính đã sống trước ngài. (GL CG nn.632-637)

Theo cùng ý nghĩa đó, đối với các Giáo Hội Kitô đông phương, việc Chúa Giêsu xuống âm phủ, được giải thích theo nghĩa phục sinh, và là một biến cố rất quan trọng trong chương trình cứu độ. Nó có nghĩa là, qua cái chết của Chúa Giêsu, quyền toàn năng của Thiên Chúa thấm nhập vào giữa lòng sự bất lực của chúng ta, để dùng sự sống của ngài làm làm đầy sự trống rỗng của cái chết và phá hủy những xiềng xích của sự chết. Ðoạn kinh tin kính đó một lần nữa nhắc nhở cho chúng ta rằng sự chết của Chúa Kitô chấm dứt cái chết và đặt nền tảng cho chiến thắng của sự sống. Sự việc Chúa Giêsu đã chia sẻ thân phận làm người của chúng ta cho đến tận cái chết, chứng tỏ chiều kích phổ quát của ơn cứu độ. Mọi thế hệ được cứu chuộc khỏi cái chết.

HỎI: Thưa cha, con có một anh bạn tên là Hoàng, kết hôn trong hoàn cảnh éo le như sau:
Hoàng là một hạ sĩ quan đầy nhiệt thành và thiện chí, nhưng rất cứng nhắc trong cái nhìn và tính tình cương trực. Trong một dịp lễ tại doanh trại, có sự tham gia của các gia đình quân nhân, Hoàng quen với Hồng là con gái của một sĩ quan thượng cấp của Hoàng và Hồng hơn Hoàng vài tuổi. Hồng xinh đẹp, duyên dáng và từng trải hơn Hoàng nhiều về phương diện tình cảm. Hai người cảm thấy quyến luyến nhau ngay và bắt đầu quan hệ ngày càng thắm thiết. Và đây cũng là mối tình đầu đối với Hoàng.

Chẳng bao lâu hai người nghĩ tới chuyện hôn nhân. Nhưng qua nhiều lần lui tới nhà cha mẹ của Hồng, Hoàng thấy Hồng rất gắn bó với cha mẹ; Hoàng nói chuyện với Hồng và tỏ ra lo ngại, nhất là khi Hồng đề nghị Hoàng đến sống chung với cha mẹ nàng. Hoàng kính mến cha mẹ của Hồng, nhưng sợ rằng cuộc sống chung như thế sẽ tạo thêm khó khăn cho kinh nghiệm sống chung vợ chồng mới mẻ của hai người, và cũng muốn tránh không ở chung cùng nhà với cấp trên của mình. Sự tranh luận giữa hai người về vấn đề này lên tới độ rất căng thẳng. Hoàng nghĩ tới chuyện hủy bỏ dự tính thành hôn, nhưng Hồng tuyên bố sẵn sàng từ bỏ ước muốn sống chung với cha mẹ sau khi kết hôn và cũng sẵn sàng theo Hoàng đến ở một nơi riêng.

Nhưng từ đó có một cái gì làm cho Hoàng nghi ngờ và không còn chắc chắn về Hồng nữa. Hoàng đến gặp cha sở của Hồng, cũng là người chuẩn bị hôn phối cho hai người. Hoàng xin cha sở yêu cầu Hồng thề sẵn sàng theo chàng đi ở riêng sau khi kết hôn, như hai bên đã thỏa thuận với nhau. Cha sở nói riêng về điều này với Hồng nhưng không buộc nàng phải thề hứa chính thức. Cha thảo luận với Hồng về vấn đề, đồng thời cũng trình bày những nghi ngờ của Hoàng, ý định nghiêm túc của chàng muốn có một nơi ở độc lập với nhà của cha mẹ Hồng. Trong khi đó, Hoàng tin là Hồng đã thề hứa trước mặt cha sở, và chàng tìm được một nhà ở tại một thành phố với làng của cha mẹ Hồng. Chàng xin Hồng làm đơn xin thuyên chuyển tới thành phố đó, vì Hồng là một giáo viên tiểu học. Ít lâu sau Hồng cam kết với Hoàng là đã làm đơn xin thuyên chuyển nhiệm sở dạy học.

Gần đến ngày cưới, nhưng Hoàng vẫn không yên tâm, nhất là vì chàng thấy Hồng chẳng tha thiết gì tới việc chuẩn bị căn nhà chung của hai người, cứ trì hoãn việc mua bàn ghế, vật dụng. Ðến ngày cưới rồi mà Hồng chỉ mua vài đồ vật lặt vặt cho căn nhà mới. Hoàng liền nói thẳng với Hồng: nghĩa là chàng cưới Hồng với điều kiện Hồng thực tâm sẽ rời bỏ cha mẹ sau lễ cưới và bắt đầu cuộc sống gia đình mới với chàng, độc lập với cha mẹ. Hồng lập lại lời cam kết và xác nhận với Hoàng là sẽ tuân hành điều kiện đó.

Ðám cưới xong, chỉ vài tuần sau, cuộc hôn nhân của Hoàng và Hồng tan vỡ. Hồng không quyết định bắt đầu cuộc sống chung với Hoàng tại căn nhà mới, viện dẫn lý do nhà mới thiếu thốn bàn ghế, vật dụng, điều mà chính nàng trước khi cưới đã chẳng quan tâm tới và cũng chẳng làm gì sau khi cưới để bổ túc. Hoàng càng nghi ngờ hơn. Chàng tới sở giáo dục để hỏi xem Hồng có làm đơn xin thuyên chuyển về nhiệm sở mới hay không. Tại đây Hoàng được biết quả thực Hồng có làm đơn xin, nhưng chỉ vài ngày sau, chính nàng xin rút đơn lại mà không cho Hoàng biết gì cả.

Ðối với Hoàng, sự kiện đó là giọt nước làm đầy ly. Chàng không chấp nhận gặp lại Hồng nữa. Hồng tìm cách thuyết phục và xin lỗi chồng. Thậm chí Hồng còn xách vali tới doanh trại của Hoàng và tuyên bố sẵn sàng sống chung với Hoàng bất kỳ tại đâu. Nhưng Hoàng không còn tín nhiệm nơi Hồng nữa, và cũng chẳng chấp nhận nói chuyện với Hồng. Ðối với chàng, hôn nhân giữa hai người không còn gì nữa.

Thưa cha, Hoàng có thể xin Giáo Hội giải hôn phối, để đi làm lại cuộc đời với người khác không? Trong vụ này, Hồng là người có lỗi chứ đâu phải tại Hoàng.

Nguyễn N.N.

ÐÁP: Trường hợp hôn phối của Hoàng và Hồng như bạn kể trong thư được các nhà giáo luật gọi là “đồng ý kết hôn với điều kiện”. Ðiều kiện là một hoàn cảnh được thêm vào cho hành vi đồng ý và người ta coi hành vi đó có hiệu lực hay không tùy theo hoàn cảnh ấy có đúng như điều kiện đã đặt ra hay không.

Về việc kết hôn với điều kiện, giáo luật phân biệt ba loại điều kiện: tương lai, hiện tại và quá khứ. Ðiều kiện tương lai, ví dụ:
“Anh lấy em làm vợ với điều kiện cuối năm nay, em sẽ được cha mẹ em chia gia tài cho em“, hoặc như điều kiện Hoàng đặt ra rõ ràng với Hồng:
“Anh kết hôn với em, với điều kiện em đến sống chung với anh sau khi cưới, chứ không tiếp tục ở chung nhà với cha mẹ em”.
Ðiều kiện hiện tại, ví dụ: “Anh kết hôn với em nếu em còn đồng trinh”. Ðiều kiện quá khứ, ví dụ: “Em lấy anh làm chồng với điều kiện anh chưa hề bị tù”.

Giáo luật khoản số 1101 quy định rằng:

1. Sự kết hôn với điều kiện tương lai thì không thể hữu hiệu.

2. Sự kết hôn với điều kiện quá khứ hoặc hiện tại thì hữu hiệu (valide) hay không tùy theo đối tượng của điều kiện đã xảy ra hay không.

3. Tuy nhiên điều nói ở triệt 2 trên đây không thể được đặt ra cách hợp pháp nếu không được Bản quyền Sở Tại (đức giám mục hoặc cha tổng đại diện giáo phận) cho phép bằng giấy tờ.

Sở dĩ việc đặt điều kiện tương lai làm cho hôn phối vô hiệu vì nó ngưng hiệu lực (validité) của hôn phối cho đến khi điều kiện được đáp ứng. Ðiều này không được giáo luật hiện hành chấp nhận, vì hôn phối phải bắt đầu có hiệu lực từ khi hai bên bày tỏ sự ưng thuận chính thức kết hôn với nhau.

Trường hợp kết hôn của Hoàng và Hồng thuộc loại được nói đến trong triệt 1 của khoản giáo luật 1101: “Sự kết hôn với điều kiện tương lai thì không thể hữu hiệu.”

Như thế, Hoàng có thể nhờ cha sở hoặc cha tuyên úy giúp nạp đơn tại tòa án hôn phối giáo phận để xin cứu xét và tuyên bố hôn phối của Hoàng là vô hiệu. Dĩ nhiên, các giới chức của tòa án, khi điều tra, sẽ hỏi các chứng cớ của những người liên hệ, từ Hoàng, tới Hồng, cha sở của Hồng và những người liên hệ khác để có thể xác quyết việc kết hôn của Hoàng và Hồng đã được thực hiện với điều kiện tương lai, và do đó việc kết hôn đó là vô hiệu.

LM Bình An