Một số đặc điểm tâm lý của sinh viên – Tải luận văn
Trong bài viết này tailuanvn.com xin chia sẻ đến bạn một số đặc điểm tâm lý của sinh viên.
Một số đặc điểm tâm lý của sinh viên
Thuật ngữ sinh liên có gốc từ tiếng La tinh “Studens”, nghĩa là người làm việc, người tìm kiếm, khai thác tri thức. Sinh viên là những người đang chuẩn bị cho một hoạt động mang lại lợi ích vật chất hay tinh thần của xã hội. Các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, sản xuất hay hoạt động xã hội của họ đều phục vụ cho việc chuẩn bị tốt nhất cho hoạt động mang tính nghề nghiệp của mình sau khi kết thúc quá trình học trong các trường nghề.
Về tuổi sinh học, đa số sinh viên thuộc lứa tuổi thanh niên từ 17 đến 25 tuổi một số ít có tuổi đời thấp hoặc cao hơn tuổi thanh niên.Vì vậy, sự phát triển và trưởng thành về giải phẫu và sinh lí của tuổi thanh niên là đặc trưng cho lứa tuổi sinh viên.
Về phương diện xã hội, sinh viên cũng giống thanh niên học sinh là nhóm người chưa ổn định, còn phụ thuộc về địa vị xã hội do chưa thực sự tham gia vào guồng máy sản xuất của xã hội.Vì vậy, đặc điểm tâm lí của họ có phần khác so với thanh niên cùng lứa tuổi nhưng đã có việc làm ổn định và trưởng thành về nghề nghiệp.
Những đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên bị chi phối bởi những đặc điểm phát triển thể chất, môi trường và vai trò xã hội cụ thể mà trong đó họ sống và hoạt động.Đây là một nhóm xã hội đặc biệt đang chuẩn bị trực tiếp cho việc tham gia vào cuộc sống tinh thần của xã hội.Những đặc điểm phát triển tâm lý ở những thanh niên sinh viên rất phong phú đa dạng và không đồng đều.
Hoạt động học tập, hoạt động xã hội và môi trường sống của sinh viên có những nét đặc trưng và đòi hỏi khác về chất so với các lứa tuổi trước đó.Để hoạt động học tập có kết quả, trong thời gian đầu ở trường ĐH-CĐ, sinh viên phải thích nghi với hoạt động học tập, hoạt động xã hội cũng như các sinh hoạt trong đời sống tập thể sinh viên. Quá trình thích nghi này tập trung chủ yếu ở các mặt:
– Nội dung học tập mang tính chuyên ngành.
– Phương pháp học tập mới mang tính nghiên cứu khoa học.
– Môi trường sinh hoạt mở rộng phạm vi quốc gia, thậm chí quốc tế
– Nội dung và cách thức giao tiếp với thầy, cô giáo, bạn bè và các tổ chức xã hội phong phú, đa dạng v.v…
Bản chất hoạt động nhận thức của những người sinh viên trong các trường ĐH – CĐ là đi sâu, tìm hiểu những môn học, những chuyên ngành khoa học cụ thể một cách chuyên sâu để nắm được đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp, qui luật của các khoa học đó, với mục đích trở thành những chuyên gia về các lĩnh vực nhất định. Hoạt động nhận thức của họ một mặt phải kế thừa một cách có hệ thống những thành tựu đã có, mặt khác lại phải tiệm cận với những thành tựu của khoa học đương đại và có tính cập nhật, thời sự. Chính vì vậy, nét đặc trưng cho hoạt động học tập của sinh viên là sự căng thẳng nhiều về trí tuệ, sự phối hợp của nhiều thao tác tư duy như phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa [22].
Sinh viên học tập nhằm lĩnh hội các tri thức, hệ thống khái niệm khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách của người chuyên gia tương lai.Hoạt động nhận thức của họ vừa gắn kết chặt chẽ với nghiên cứu khoa học, vừa không tách rời hoạt động nghề nghiệp của người chuyên gia.
– Hoạt động học tập của sinh viên diễn ra một cách có kế hoạch, có mục đích, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp đào tạo theo thời gian một cách chặt chẽ nhưng đồng thời không quá bị khép kín, quá câu nệ mà lại có tính chất mở rộng khả năng theo năng lực, sở trường để họ có thể phát huy được tối đa năng lực nhận thức của mình trong nhiều lĩnh vực. Phương tiện hoạt động nhận thức của sinh viên được mở rộng và phong phú với các thư viện, phòng đọc, phòng thực nghiệm, phòng bộ môn với những thiết bị khoa học cần thiết của từng ngành đào tạo. Do đó phạm vi hoạt động nhận thức của sinh viên đa dạng: vừa rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, vừa phát huy việc học nghề một cách rõ rệt.
Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập, tự chủ và sáng tạo cao. Hoạt động tư duy của sinh viên trong quá trình học tập chủ yếu là theo hướng phân tích, diễn giải, chứng minh các định đề khoa học.
Tóm lại hoạt động nhận thức của sinh viên thực sự là loại hoạt động trí tuệ đích thực, căng thẳng, cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt.Hoạt động trí tuệ này vẫn lấy những sự kiện của các quá trình nhận thức cảm tính làm cơ sở. Song các thao tác trí tuệ đã phát triển ở trình độ cao và đặc biệt có sự phối hợp nhịp nhàng, tinh tế và uyển chuyển, linh động tùy theo từng hoàn cảnh có vấn đề. Bởi vậy đa số sinh viên lĩnh hội nhanh nhạy, sắc bén những vấn đề mà thầy, cô giáo trình bày.Họ thường ít thỏa mãn với những gì đã biết mà muốn đào sâu, suy nghĩ để nắm vấn đề sâu hơn, rộng hơn [22].
Theo B.G.Ananhev và một số nhà tâm lý học khác, tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất của những loại tình cảm cao cấp như tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ.Những tình cảm này biểu hiện rất phong phú trong hoạt động và trong đời sống của sinh viên.Đặc điểm của nó là tính có hệ thống và bền vững so với thời kỳ trước đó.Hầu hết sinh viên biểu lộ sự chăm chỉ, say mê của mình đối với chuyên ngành và nghề nghiệp đã chọn. Để thỏa mãn tình cảm trí tuệ, họ học tập không chỉ ở giảng đường và thư viện trường ĐH mà còn mở rộng và đào sâu kiến thức của mình bằng nhiều cách: học thêm ở khoa khác, trường khác, tìm đọc ở nhiều thư viện, học trên các phương tiện truyền thông v.v…. Chính tình cảm trí tuệ này làm cho lượng tri thức mà sinh viên tích lũy được thường rất lớn, vượt xa những sinh viên không có loại tình cảm này về mọi mặt [22]
Hơn ai hết sinh viên là người yêu vẻ đẹp thể hiện ở hành vi phong thái đạo đức, cũng như vẻ đẹp thẩm mỹ ở các sự vật hiện tượng của thiên nhiên hoặc con người tạo ra. Khác với những lứa tuổi trước, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ ở tuổi sinh viên biểu lộ một chiều sâu rõ rệt.Họ yêu thích cái gì họ đều có thể lý giải, phân tích một cách có cơ sở. Cá biệt có những sinh viên đã xây dựng được “triết lý” cho cái đẹp của mình theo chiều hướng khá ổn định. Điều này lý giải tại sao ở độ tuổi này sinh viên đã có cách cảm, cách nghĩ riêng, có phong cách kiến trúc, hội họa, điêu khắc riêng v.v….
Tình bạn cùng giới, khác giới ở tuổi sinh viên tiếp tục phát triển theo chiều sâu. Những bạn bè thời trung học phổ thông vẫn tiếp tục chiếm vị trí quan trọng trong đời sống sinh viên. Nhiều sinh viên mặc dù lên ĐH – CĐ, không còn được hằng ngày gần gũi, tiếp xúc với bạn mình thời PTTH, nhưng họ vẫn giữ tình bạn đẹp đẽ, sâu sắc và thường tìm mọi cơ hội để liên lạc với bạn mình. Ở nhiều sinh viên, tình bạn này là mãi mãi.Bên cạnh đó, chính trong những năm ở trường ĐH – CĐ, sinh viên lại có thêm những tình bạn mới không kém phần bền vững sâu sắc.Tình bạn ở tuổi sinh viên đã làm phong phú thêm tâm hồn, nhân cách của sinh viên rất nhiều [22].
Bên cạnh tình bạn, tình yêu nam nữ ở tuổi sinh viên là một lĩnh vực rất đặc trưng.Loại tình cảm này có mầm mống ở giai đoạn dậy thì, có sự thể nghiệm ở giai đoạn đầu tuổi thanh xuân và đến thời kỳ này thì phát triển với một sắc thái mới.Như phần trên đã trình bày, sinh viên là lứa tuổi phát triển một cách toàn diện, hoàn thiện và hoàn mĩ về thể chất cũng như tư tưởng, tinh thần. Họ bước vào lĩnh vực của tình yêu nam nữ với một “tư thế” hoàn toàn khác với lứa tuổi trước đó do vị thế xã hội, trình độ học lực và tuổi đời qui định. Song loại tình cảm này cũng không thể hiện đồng đều ở sinh viên.Điều này lại tùy thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, tùy thuộc vào quan niệm và kế hoạch đường đời của mỗi người.
Nhân cách của thanh niên sinh viên phát triển khá toàn diện và phong phú. Sau đây chỉ xin nêu những đặc điểm đặc trưng nhất:
– Đặc điểm về tự đánh giá, tự ý thức, tự giáo dục ở sinh viên.
Tự đánh giá (self evaluation) là một trong những phẩm chất quan trọng, một trình độ phát triển cao của nhân cách. Tự đánh giá có ý nghĩa định hướng, điều chỉnh hoạt động, hành vi của chủ thể nhằm đạt mục đích, lý tưởng sống một cách tự giác. Nó giúp con người không chỉ biết người mà còn “biết mình”. Tự đánh giá ở tuổi sinh viên là một hoạt động nhận thức, trong đó đối tượng nhận thức chính là bản thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu thập, xử lý thông tin về chính mình, chỉ ra được mức độ nhân cách tồn tại ở bản thân, từ đó có thái độ hành vi, hoạt động phù hợp nhằm tự điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện và phát triển…
Đặc điểm tự đánh giá ở sinh viên mang tính chất toàn diện và sâu sắc.Biểu hiện cụ thể của nó là sinh viên không chỉ đánh giá hình ảnh bản thân mình có tính chất bên ngoài, hình thức mà còn đi sâu vào các phẩm chất, các giá trị của nhân cách. Tự đánh giá của họ không chỉ trả lời câu hỏi: Tôi là ai? mà còn: Tôi là người thế nào? Tôi có những phẩm chất gì?Tôi có xứng đáng không?v.v… Hơn thế họ còn có khả năng đi sâu lý giải câu hỏi: Tại sao tôi là người như thế? Những cấp độ đánh giá ở trên mang yếu tố phê phán, phản tỉnh rõ rệt.Vì vậy, tự đánh giá của sinh viên vừa có ý nghĩa tự ý thức, tự giáo dục.
Tự ý thức là một trình độ phát triển cao của ý thức, nó giúp sinh viên có hiểu biết về thái độ, hành vi, cử chỉ của mình để chủ động hướng hoạt động của mình đi theo những yêu cầu đòi hỏi của tập thể, của cộng đồng xã hội.
Một số kết quả nghiên cứu tự ý thức, tự đánh giá ở sinh viên cho thấy: mức độ phát triển của những phẩm chất nhân cách này có liên quan đến trình độ học lực cũng như kế hoạch sống trong tương lai của sinh viên. Những sinh viên có kết quả học tập cao thường chủ động, tích cực trong việc tự nhìn nhận, tự đánh giá, tự kiểm tra hành động, thái độ cư xử, cử chỉ giao tiếp để hướng tới những thành tựu khoa học, lập kế hoạch học tập, nghiên cứu khoa học một cách cụ thể nhằm tự hoàn thiện ngày càng cao. Còn những sinh viên có kết quả học tập thấp dễ tự đánh giá không phù hợp.Có những sinh viên tự đánh giá mình quá cao, thường bị động trong học tập, nhu cầu giao tiếp thường mạnh hơn nhu cầu nhận thức.Hoạt động của họ hướng chủ yếu vào các quan hệ.Ngược lại có một số sinh viên đánh giá mình quá thấp, thường bi quan trước kết quả hoạt động hoặc thụ động trong quan hệ giao tiếp với bạn bè.Họ ít phấn đấu vươn lên trong học tập nên việc tự giáo dục, tự hoàn thiện đạt mức thấp.
Tự đánh giá về mức độ trí tuệ là thành phần quan trọng trong tự ý thức, tự giáo dục ở sinh viên: Những sinh viên đánh giá mình quá thấp về mặt này thường gây khó khăn cho họ trong quá trình học tập. Vì vậy cần giúp những sinh viên này thay đổi sự tự đánh giá ở mức lạc quan, tự tin hơn là điều rất cần thiết. Điều này sẽ làm thay đổi thái độ chung đối với bản thân người sinh viên. Nhờ đó lòng tự tin, tính tự trọng phát triển theo chiều hướng tốt, tạo điều kiện cho sự vươn lên trong học tập và phấn đấu, rèn luyện nhân cách
Tóm lại, những phẩm chất nhân cách: tự đánh giá, lòng tự trọng, tự tin, sự tự ý thức đều phát triển mạnh mẽ ở tuổi sinh viên. Chính những phẩm chất nhân cách bậc cao này có ý nghĩa rất lớn đối với việc tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực của những trí thức tương lai.
– Sự phát triển về định hướng giá trị ở thanh niên sinh viên
Định hướng giá trị là một trong những lĩnh vực rất cơ bản, quan trọng đối với đời sống tâm lý của người sinh viên.Có rất nhiều quan niệm khác nhau về định hướng giá trị.Song có thể nêu những nét cơ bản sau đây về khái niệm định hướng giá trị.
Định hướng giá trị là những giá trị được chủ thể nhận thức, ý thức và đánh giá cao, có ý nghĩa định hướng điều chỉnh thái độ, hành vi, lối sống của chủ thể nhằm vươn tới những giá trị đó. Ví dụ: những giá trị về chân, thiện, mĩ đã định hướng cho sự phấn đấu của loài người trong bao nhiêu thế kỷ. Giá trị hòa bình, độc lập dân tộc, tự do, chủ nghĩa xã hội đã là những định hướng giá trị cho bao thế hệ thanh niên Việt Nam….
Định hướng giá trị có nhiều tầng bậc, phạm vi khác nhau. Có những giá trị là định hướng cho một quốc gia, một thế hệ, cũng có những định hướng giá trị có phạm vi hẹp chỉ trong một nhóm nào đó. Định hướng giá trị có tính bền vững tương đối là một khái niệm động, không phải bất biến nên có thể thay đổi tùy theo hoàn cảnh, điều kiện kinh tế chính trị, xã hội.
Định hướng giá trị phát triển mạnh vào cuối tuổi thiếu niên, đầu tuổi thanh niên khi họ phải đứng trước việc chọn nghề, chọn các chuyên ngành khác nhau trong việc thi vào các trường ĐH – CĐ. Những nghiên cứu về định hướng giá trị của chương trình KHCN cấp Nhà nước, với đề tài KX-07-04 của một số tác giả (1) cho thấy trong hệ thống các giá trị chung, sinh viên Việt Nam đánh giá cao các giá trị: hòa bình, tự do, tình yêu, công lý, việc làm, niềm tin, gia đình, nghề nghiệp, tình nghĩa, sống có mục đích, tự trọng [22].
Về những định hướng giá trị đối với nhân cách, đa số sinh viên đã chọn và nhấn mạnh các phẩm chất sau đây ngoài những giá trị chung khác: có tư duy kinh tế, biết tính toán hiệu quả, năng động, nhanh thích nghi với hoàn cảnh, sử dụng thành thạo tiếng nước ngoài, dám nghĩ, dám làm, chấp nhận mạo hiểm.
Những định hướng giá trị nghề nghiệp được sinh viên lựa chọn là: biết xây dựng cuộc sống gia đình hoà thuận, nghề có thu nhập cao, nghề phù hợp sức khoẻ, trình độ, nghề phù hợp hứng thú, sở thích, nghề có điều kiện chăm lo gia đình,… [22]
Định hướng giá trị của sinh viên liên quan mật thiết với xu hướng nhân cách và kế hoạch đường đời của họ.Với sinh viên, những ước mơ, hoài bão, những lý tưởng của tuổi thanh xuân dần dần được hiện thực, được điều chỉnh trong quá trình học tập ở trường ĐH. Tính viển vông, huyễn tưởng của những điều trừu tượng xa vời nhường chỗ cho kế hoạch đường đời cụ thể do việc học để trở thành người có nghề nghiệp đã được xác định rõ ràng. Sinh viên không chỉ đặt ra kế hoạch đường đời của mình mà còn tìm cách để thực thi kế hoạch đó theo những giai đoạn nhất định. Họ ấn định cụ thể bao giờ thì học xong chứng chỉ tin học, ngoại ngữ và những bằng khác.Nhiều sinh viên ngay từ khi ngồi trên ghế giảng đường ĐH đã có kế hoạch riêng về nhiều mặt để đạt được mục đích cuộc đời của mình.Họ không ngần ngại tìm việc làm thêm để thỏa mãn những yêu cầu học tập ngày càng cao và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hành nghề sau này.