Lưu ý khi dùng thuốc trị sán lá gan

Khi bị bệnh, tùy từng trường hợp cụ thể bác sĩ sẽ cho bệnh nhân sử dụng loại thuốc trị sán lá gan phù hợp, người bệnh tuyệt đối không tự ý sử dụng hoặc tự ý ngưng hay tăng, giảm liều khiến bệnh không khỏi, gây khó khăn cho điều trị và ảnh hưởng tới sức khỏe.

Bệnh sán lá gan

Sán lá gan gây bệnh cho người có hai loại là sán lá gan nhỏ và sán lá gan lớn. Mỗi loại sán lá gan có các đặc điểm riêng.

Sán lá gan nhỏ phổ biến hiện nay là Clonorchis sinensis và Opisthorchis viverrini. Chúng có kích thước nhỏ và ký sinh ở đường mật trong gan. Người bị nhiễm bệnh do ăn cá nước ngọt còn sống như gỏi cá hoặc chưa được nấu chín kỹ có nang ấu trùng sán; khi ấu trùng sán đến tá tràng, ấu trùng sẽ thoát nang và sau 15 giờ ấu trùng sán đi ngược lên đường dẫn mật hoặc đường dẫn tụy; sau 1 tháng sẽ phát triển thành sán trưởng thành và ký sinh ở đó, sán có thể sống ký sinh trong cơ thể người từ 15-25 năm. Khi nhiễm sán ít, bệnh tiến triển thầm lặng, có ít hoặc không có triệu chứng lâm sàng. Nếu nhiễm nhiều sán, triệu chứng lâm sàng rõ hơn, số lượng sán trong đường dẫn mật ở một số trường hợp có thể lên đến hàng trăm hoặc hàng ngàn con.

Sán lá gan lớn gây bệnh cho người phổ biến hiện nay cũng gồm có hai loại là Fasciola hepatica và Fasciola gigantica, kích thước lớn hơn sán lá gan nhỏ. Người bị nhiễm bệnh do ăn phải các loại rau thủy sinh hoặc uống nước lã có nang ấu trùng sán, sau đó ấu trùng sán phát triển thành sán trưởng thành ký sinh ở gan; tuổi thọ của sán lá gan lớn sống ở người khoảng từ 9 – 14 năm. Sán lá gan lớn chủ yếu ký sinh ở gan nhưng cũng có thể ký sinh lạc chỗ ở các nơi khác như ở đường tiêu hóa, dưới da; ở tim, mạch máu phổi và màng phổi…

Khi bị nhiễm sán lá gan lớn, tình trạng bệnh lý phụ thuộc vào số lượng sán nhiễm, thời gian mắc nhiễm, vị trí ký sinh và phản ứng của người bệnh. Các biểu hiện lâm sàng thường gặp là sốt, đau bụng; có triệu chứng viêm đường mật, viêm gan thể u và có liên quan đến tiền sử ăn sống các loại rau thủy sinh.

Ăn thực phẩm chưa nấu chín là nguyên nhân dẫn đến bệnh sán lá gan và nhiều bệnh lý nguy hiểm khác.

Ăn thực phẩm chưa nấu chín là nguyên nhân dẫn đến bệnh sán lá gan và nhiều bệnh lý nguy hiểm khác.

Dùng thuốc trị sán lá gan như thế nào?

Thuốc điều trị bệnh sán lá gan nhỏ có nhiều loại khác nhau như: chloroquine diphosphate, hexachloroparaxylol, bithionol, praziquantel…; thuốc được bác sĩ chỉ định tùy theo từng trường hợp.

Hiện nay, praziquantel là thuốc được các bác sĩ chỉ định điều trị bệnh sán lá gan nhỏ khá phổ biến. Nên uống thuốc kèm theo bữa ăn, thường uống chia làm 3 lần mỗi ngày, cách nhau tối thiểu khoảng 4-6 giờ, nên uống viên thuốc với 1 ly nước đầy khoảng 250ml, không nên nhai hoặc ngậm viên thuốc vì có thể gây buồn nôn hoặc nôn. Các tác dụng phụ của thuốc có thể xảy ra như mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, khó chịu dạ dày, sốt nhẹ, phát ban nhẹ…; khi phát hiện có dấu hiệu phát ban nặng, khó thở, sưng mặt và môi, lưỡi, họng… thì phải đến ngay cơ sở y tế để được xử trí. Thận trọng khi sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai và đang cho con bú, trẻ em, người bị dị ứng, đang dùng các thuốc điều trị và mắc các bệnh lý khác…

Thuốc điều trị sán lá gan lớn cũng có nhiều loại khác nhau như: emetine, dehydroemetine, bithionol, hexachloroparaxylol, niclorofan, mebendazole, triclabendazole… Tùy theo mỗi loại thuốc số ngày dùng và cách dùng sẽ khác nhau. Ví dụ: emetine, dehydroemetine dùng trong 10-14 ngày; bithionol uống cách nhật trong 20-30 ngày và chia ra 3 đợt điều trị; hexachloroparaxylol uống trong 5 hoặc 7 ngày liên tục…

Triclabendazol hiện nay được sử dụng khá phổ biến để điều trị sán lá gan lớn cả thể cấp tính và mạn tính vì có tác dụng tốt, có hiệu quả cao và an toàn. Thuốc được uống sau bữa ăn với nước đun sôi để nguội. Không sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai và đang cho con bú, có tiền sử mẫn cảm với thuốc. Cần hỗ trợ điều trị thêm bằng kháng sinh nếu có bội nhiễm, khi ổ áp-xe lớn trên  6cm. Nếu điều trị bằng thuốc không hiệu quả thì có thể chọc hút ổ áp-xe. Phải theo dõi điều trị tại cơ sở y tế ít nhất 3 ngày và khám lại định kỳ sau 3 – 6 tháng điều trị để kiểm chứng. Thuốc có thể gây các tác dụng phụ như: ra mồ hôi, sốt, đau bụng vùng thượng vị, chán ăn, tiêu chảy, nôn hoặc buồn nôn, vàng da, gây cơn đau quặn mật, chóng mặt, choáng váng, nhức đầu, nổi mề đay…; vì vậy phải được theo dõi sau khi dùng thuốc. Trường hợp các triệu chứng bệnh lý không giảm, cần chẩn đoán nguyên nhân khác…

Để phòng bệnh sán lá không ăn sống các loại rau thủy sinh và uống nước lã, không ăn gỏi cá, không ăn sống các loại cá nước ngọt hoặc chưa được nấu chín kỹ. Khi có dấu hiệu mắc bệnh phải đến cơ sở y tế để được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Cần tuân thủ việc dùng thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ. Trong quá trình dùng thuốc nếu thấy bất kỳ một biểu hiện nào khác thường cần được tư vấn kịp thời của bác sĩ điều trị.