Lưu trữ tế bào gốc máu dây rốn: Cơ hội trong điều trị ung thư máu

Lưu trữ tế bào gốc máu dây rốn: Cơ hội trong điều trị ung thư máu

Nếu không may mắc bệnh ung thư máu, bạn có thể cần ghép tế bào gốc. Những tế bào gốc này có thể thay thế những tế bào đã bị chết, tổn thương hay sai hỏng do ung thư, đồng thời tái thiết lại hệ miễn dịch – tạo máu của cơ thể. Đối với một vài trường hợp, ghép tế bào gốc có thể là trị liệu tốt nhất hoặc là duy nhất. Lưu trữ tế bào gốc dây rốn tại Ngân hàng Tế bào gốc Bệnh viện Bưu điện ngay từ khi bé vừa chào đời chính là nguồn dự phòng vô giá trong tương lai, cơ hội vàng đảm bảo cho con cháu và người thân trong gia đình bạn khỏe mạnh nếu không may mắc bệnh hiểm nghèo.

Tế bào gốc tạo máu.

Tế bào gốc được nhắc đến ở đây là tế bào gốc tạo máu – hematopoietic stem cells (HSCs) tồn tại trong tuỷ xương – một loại mô mềm trong các đầu xương dài, xương chậu, xương ức. Chúng cũng tồn tại ở máu ngoại vi của chúng ta với số lượng ít và đặc biệt rất dồi dào trong máu dây rốn. Khi các tế bào gốc tạo máu này trưởng thành, chúng biệt hoá thành 3 loại tế bào thiết yếu với cơ thể:

Hồng cầu: vận chuyển oxy cho cơ thể

Bạch cầu: bảo vệ cơ thể, chống lại các tác nhân gây bệnh

Tiểu cầu: có vai trò quan trọng giúp đông máu

Trong các nguồn thu nhận tế bào gốc tạo máu – HSCs như từ tủy xương, máu ngoại vi, thì thu nhận tếbào gốc từ máu dây rốn có nhiều ưu điểm vượt trội so với các nguồn khác.

Máu dây rốn là, vì sao cần lưu trữ tế bào gốc máu dây rốn?

Trước đây, dây rốn và bánh nhau được xem như một loại rác thải y tế. Dây rốn nối giữa bánh nhau của mẹ và thai nhi, máu dây rốn nằm trong tĩnh mạch của dây rốn, có vai trò cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho bào thai phát triển trong tử cung người mẹ. Từ những năm đầu của thập niên 80, các nhà khoa học đã tìm ra máu dây rốn của trẻ sơ sinh chứa nguồn dồi dào tế bào gốc tạo máu – HSCs. Gần đây máu dây rốn cũng được phát hiện chứa một số lượng nhỏ tế bào gốc trung mô – Mesenchymal stem cellls – MSCs, tế bào gốc biểu mô – Epithelial stem cells (EpSCs) và có thể chứa những loại tế bào gốc khác nữa mà khoa học đương đại chưa nghiên cứu ra.

Ưu điểm của tế bào gốc máu dây rốn:

  • Thu nhận không xâm lấn, không gây đau, không ảnh hưởng tới sức khỏe của mẹ và bé.
  • Máu dây rốn chứa nguồn tế bào gốc tươi trẻ với năng lực tái tạo mạnh mẽ
  • Phổ ứng dụng trong điều trị rộng, có thể thay thế cho phương pháp ghép tủy tốn kém, khó khăn về mặt kỹ thuật và khan hiếm nguồn tuỷ tương thích.
  • Khả năng cấy ghép đồng loài, tức là ghép cho cơ thể khác như bố mẹ, anh chị em và người thân trong gia đình cao.
  • Máu dây rốn có thể được hiến tặng cho các ngân hàng công cộng để dự trữ cho người bệnh (có chỉ số sinh học phù hợp) khi họ cần ghép.

Vì tế bào gốc này được thu nhận ngay khi em bé mới sinh ra nên chúng là những tế bào non trẻ nhất và vì vậy năng lực tái tạo của chúng là mạnh mẽ hơn nhiều so với các loại tế bào gốc “già” được lấy từ mô của người trưởng thành. Hơn nữa, chỉ có một cơ hội để cất giữ chúng là lúc em bé được sinh ra. Do đó, việc lưu trữ nguồn tế bào gốc quý giá này là vô cùng cần thiết.

Thế nào là lưu trữ máu dây rốn?

Sau khi em bé được sinh ra, dây rốn sẽ được cắt khỏi cơ thể em bé, phần máu dây rốn còn xót lại trong dây rốn sẽ được thu nhận lại để tách chiết tế bào gốc. Các tế bào gốc này sẽ được bảo quản ở nhiệt độ âm sâu trong thời gian dài tại các ngân hàng tế bào gốc. Khi em bé hoặc người thân của em bé cần sử dụng chúng thì chúng sẽ được lấy ra và được rã đông đẻ ghép/truyền cho bệnh nhân. Cha mẹ có thể đăng ký lưu trữ máu dây rốn của con mình như một nguồn bảo hiểm sinh học cho con/các con trong tương lai. Hoặc có thể hiến tặng máu dây rốn này cho các ngân hàng công cộng để dự trữ cho người bệnh khác khi cần.

Máu dây rốn được thu thập từ dây rốn đã cắt khỏi em bé và lưu trữ trong túi chuyên dụng.

 

Cấy ghép tế bào gốc máu dây rốn đem lại cơ hội cho bệnh nhân ung thư máu

Ghép tủy là biện pháp đã được sử dụng rộng rãi trên 30 năm qua để ghép cho bệnh nhân ung thư máu sau hóa trị, xạ trị, đặc biệt là bệnh bạch cầu hay còn gọi là bệnh máu trắng, u lym pho, đa u tủy. v.v. Tủy xương là cơ quan tạo máu của cơ thể, là “ổ” tế bào gốc tạo máu để sản sinh ra các tế bào hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu để thực hiện chức năng quan trọng của cơ thể. Ở bệnh nhân ung thư máu, hóa trị và hoặc xạ trị có thể được chỉ định để tiêu diệt các tế bào ung thư, song hầu hết các tế bào gốc còn khỏe mạnh trong tủy xương cũng vô tình bị chết theo dẫn đến cơ thể thiếu trầm trọng các tế bào máu giữ những chức năng quan trọng. Do vậy, bệnh nhân cần được ghép tủy xương hay nói chính xác là tế bào gốc tạo máu trong tủy xương của người khỏe mạnh tương thích về mặt di truyền với mình để phục hồi và tái tạo lại tủy xương, sản sinh ra các tế bào máu khỏe mạnh. Không may, chỉ một phần tư số người cần ghép tủy từ người khác có anh chị em ruột tương thích về mặt di truyền và có khả năng hiến tặng tế bào gốc. Ba phần tư số người bệnh còn lại sẽ phải tìm nguồn tủy phù hợp từ người hiến tặng hay ngân hàng tủy công cộng.

Tháng 10 năm 1988 đánh dấu một thành tựu đột phá trong y học với ca ghép tế bào gốc máu dây rốn đầu tiên thực hiện bởi các bác sĩ người Pháp, trên bé trai 5 tuổi bị bệnh thiếu máu Fanconi mà người hiến là em gái sơ sinh của bệnh nhân. Sau ghép, tủy phát triển tốt, bệnh nhân hồi phục và duy trì tình trạng sức khỏe ổn định cho đến nay. Như vậy, các tế bào gốc tạo máu có trong máu dây rốn đã phát huy vai trò kỳ diệu của chúng trong phục hồi hệ tạo máu của bệnh nhân ung thư máu. Kể từ đó, máu dây rốn được ứng dụng ngày càng nhiều trong lâm sàng như một nguồn tế bào gốc để thay thế nguồn tế bào gốc từ tủy xương và máu ngoại vi.

Đối với bệnh nhân ung thư máu cần ghép tủy nhưng không tìm được nguồn tủy tương thích thì việc ghép tế bào gốc máu dây rốn là cơ hội tốt nhất và đôi khi là duy nhất để hồi phục tủy bị thương tổn sau hoá/xạ trị.

Lợi ích của việc lưu trữ máu cuống rốn

Khác với người trưởng thành, hệ miễn dịch của em bé mới ra đời chưa hoàn chỉnh và đây cũng là một ưu điểm của tế bào gốc từ máu dây rốn. Điều này có nghĩa là tế bào gốc máu dây rốn có tính sinh miễn dịch thấp nên dễ được cơ thể khác (không cùng huyết thống) tiếp nhận khi cấy ghép mà không đòi hỏi độ tương thích cao về mặt di truyền. Nói cách khác, khả năng những tế bào này bị đào thải sau ghép thấp. Do vậy, không chỉ em bé mà anh/chị/em, bố/mẹ, ông/bà và người thân trong gia đình và cả những người khác trong cộng đồng có chỉ số tương thích phù hợp cũng có thể sử dụng tế bào gốc này khi cần.

Tế bào gốc từ máu dây rốn có thể được dùng để cấy ghép cho những người thân trong gia đình với khả năng tương thích cao.

Máu dây rốn có thể dùng để điều trị những bệnh gì?

Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) xác nhận máu dây rốn được ứng dụng vào điều trị hơn 80 bệnh lý trong vòng 30 năm qua, ước tính hơn 700.000 đơn vị máu cuống rốn được hiến tặng và hơn 40.000 ca cấy ghép được tiến hành trên toàn cầu.

Máu dây rốn đã được sử dụng điều trị trên 80 mặt bệnh trong hơn 30 năm qua.

Một số nhóm bệnh có thể sử dụng tế bào gốc máu dây rốn:

v Ung thư máu

–       Bệnh bạch cầu tủy cấp tính

–       Bệnh bạch cầu nguyên bào

lympho cấp tính

–       Bệnh bạch cầu tủy mãn tính

–       Hội chứng loạn suy tủy/đa u

tủy

–       Ung thư tế bào bạch cầu

 

v Rối loạn máu không ác tính

–       Thiếu máu ngừng triển (thiếu sản xuất hồng cầu)

–       Hội chứng Chediak-Higashi (bạch tạng cục bộ, mắt mờ, sợ ánh sáng)

–       Hội chứng Diamond-Blackfan

–       Thiếu máu Fancoini’s

–       Hội chứng suy tủy di truyền

–       Suy bạch cầu bám dính

–       Thiếu máu hồng cầu lưỡi liềm

v Khối u

–       Ung thư hạch Hodgkin

–       Bệnh mô bào huyết tế bào

Langerhans

–       U nguyên bào thần kinh/võng mạc

 

v Rối loạn suy giảm miễn dịch

–       Suy giảm miễn dịch phổ biến

–       Hội chứng suy giảm miễn dịch kết hợp trầm trọng (SCID)

–       Hội chứng Wiskott-Aldrich

v Rối loạn chuyển hóa

–       Loạn dưỡng chất trắng-thượng thận

–       Bệnh Gaucher’s (rối loạn chuyển hóa lipid bẩm sinh)

–       Hội chứng Hurler (bất thường bẩm sinh ở xương và sụn, gây gù lung, dị tật khung xương)

–       Bệnh Krabbe (loạn dưỡng chất trắng não, gây động kinh, suy giảm trí tuệ, không sống quá 2 năm)

–       Bệnh Wolman (rối loạn quá trình trao đổi chất, lách to, hóa vôi tuyến thượng thận)

 

Như vậy có thể thấy, tế bào gốc đã mở ra một hướng điều trị tiềm năng cho ngành y học. Việc ứng dụng tế bào gốc sẽ đem lại nhiều cơ hội hơn trong điều trị bệnh lý phức tạp. Quan tâm tới lưu giữ tế bào gốc máu dây rốn ngay từ bây giờ được xem là một biện pháp bảo đảm tương lai sức khoẻ cho con bạn và gia đình bạn khi mà tới đây sự phát triển của ngành y học sẽ giúp nhiều người có cơ hội điều trị tốt hơn.

Thông tin chi tiết xin liên hệ Đơn nguyên Tế bào gốc và Di truyền – Trung tâm Hỗ trợ sinh sản – Bệnh viện Bưu điện

ĐT: 0963161177