Lịch sử ngành Sinh Trắc Vân Tay

Nói về lịch sử của ngành Sinh Trắc Vân Tay thì Tiến sĩ Harold Cummins, được biết đến như cha đẻ của ngành sinh trắc bàn tay, tạo ra các định nghĩa về dấu vân tay và những đường chỉ tay có liên quan, hình dáng bàn tay vào năm 1926. 

Xem thêm: Sinh Trắc Vân Tay là gì?

Việc mở rộng phạm vi nghiên cứu về sự tiền phát triển của dấu vân tay cần có sự quan tâm đúng mực của giới chuyên gia về y học. Noel Jaquin, “một Cummins đương thời”, đóng một vai trò trọng yếu trong việc phân tích bàn tay. 

Chúng ta bắt đầu lội ngược dòng thời gian tìm về lịch sử của dấu vân tay và những bài nghiên cứu về nó từ hàng ngàn năm trước, và từ đó quay dần về hiện tại.

Lịch sử thời sơ khai

Những tranh vẽ trong động và những biểu đồ được khắc trên đá thời cổ xưa đã cung cấp cho chúng ta thấy bằng chứng xác thực về sự quan tâm nhất định của người tiền sử tới đôi tay. Tuy nhiên, ý nghĩa của những bản vẽ tiền lịch sử này có xu hướng được hiểu theo một nghĩa rộng hơn. 

Những gì có thể khẳng định một cách chắc chắn là vào 500 năm trước công nguyên, những giao dịch thương mại của người Babylon đã được ghi lại trên những phiến đất sét có bao gồm dấu vân tay. Cũng vào cùng thời điểm đó, những tài liệu của Trung Quốc được tìm thấy có in lại dấu vân tay của tác giả. 

Một vài những bình gốm sứ ngày xưa cũng có những dầu ăn tương tự như vậy. Liệu rằng điều đó có phải có ý nghĩa là mỗi dấu vân tay chính là chữ ký xác định để nhận dạng danh tính của mỗi người??? Điều này vẫn chưa được chứng minh.

Ở một khía cạnh khác trong việc phân tích bàn tay, có rất nhiều điều phát hiện được từ xa xưa hơn nhưng lại ít bằng chứng xác thực. Theo lời kể bởi một vài những nhà xem tay thông thạo theo cách thức truyền thống của Phương Đông, họ nói rằng những cuộc nghiên cứu về dấu vân tay đã được bắt đầu ở Ấn Độ từ hơn năm ngàn năm về trước. 

Có nơi ghi lại rằng Aristotle du lịch tới Ấn Độ, học về thuật xem tay, và dạy lại nó cho học trò của mình, Alexander Great. Tuy vậy, bất kì hệ thống vân tay nào được sử dụng vào thời đó hiện nay đều bị thất lạc.

Fred Gettings, tác giả của cuốn sách Cẩm nang xem tay (The book of the Hand), đã viết:

“Không có một khởi đầu nào được ghi nhớ lại về một môn nghệ thuật xưa cũ tồn tại trước khi Aristotle ra đời… Những mảnh vỡ cũ nát … vẫn còn tồn tại đến ngày nay như một minh chứng mập mờ về những tri thức xem tướng tay của thời Hoàng Kim đã qua”.

Có lẽ mục đích sử dụng dấu vân tay kì lạ nhất là vào khoảng thế kỉ XVI ở Trung Quốc. Ở đây, những thương vụ mua bán trẻ em được xác nhận bằng cách đặt cả dấu vân tay và dấu vẫn chân của trẻ em lên giấy xác nhận giao dịch.

Lần đầu tiên dấu vân tay được đề cập tới chính thức là trong một tài liệu y học vào năm 1684. Tiến sĩ Nehemiah Grew – thuyết giảng tại trường đại học Royal một bài giảng chi tiết về các dấu vân tay dành cho những nhà vật lý học tại London. 

Bài giảng của ông nói về những dấu hiệu thú vị được tìm thấy trên đầu ngón tay của con người. Khi các nhà khoa học khám phá thế giới theo hai khía cạnh động vật và thực vật và nghiên cứu về những chức năng và dạng cơ bản của cơ thể người, thì việc nghiên cứu về dấu vân tay cũng được từng bước được phát triển.

Những bước ngoặt đáng chú ý của ngành Sinh Trắc Học Dấu Vân Tay

Những người đặt nền móng cho giải phẫu và phân tích dấu vân tay

Dưới đây là những mốc thời gian những nhà khoa học đầu tiên đặt nền móng cho phân tích dấu vân tay – Nền tảng của Sinh Trắc Vân Tay

Năm 1686, Marcello Malpighi – Giáo sư về giải phẫu học tại trường đại học Barcelona: những quan sát đầu tiên về dấu vân tay dưới kính hiển vi.

Năm 1788, J. C. A. Mayer – Người đầu tiên viết về những nguyên lý cơ bản trong phân tích dấu vân tay. Ông giả thuyết về sự duy nhất của dấu vân tay: 

“Mặc dù các dấu vân tay không bao giờ lặp lại y hệt nhau ở hai người, nhưng với một số người, dấu vân tay của họ có sự tương đồng nhiều hơn. Đổi với những người khác, sự khác nhau giữa các dấu vân tay rất đáng kể. Tuy vậy, dù có những nét riêng trong cấu hình của các dấu vân tay, tất cả đều có những điểm tương đồng nhất định.”

Năm 1823, Jan Evangelista Purkyně Purkinje – Giáo sư giải phẫu học tại trường đại học Breslau: Hệ thống phân loại dấu vân tay đầu tiên.

Ông xuất bản một luận án mà công nhận 9 nhóm cấu hình chính của dấu vân tay: arch, tented arch, ulnar loop, radial loop, peacock’s eye/compound, spiral whorl, elliptical whorl, circular whorl, và double loop/composite

Năm 1833, Charles Bell – Nhà giải phẫu học và tác giả của cuốn sách: Bàn Tay: Cấu trúc và tài năng thiên phủ ứng với những kết cầu vân tay thông dụng.

Năm 1858, William Herschel – Giám đốc hành chính của Anh, Bengal, Ấn Độ: Người đầu tiên sử dụng nhận diện dấu vân tay theo diện rộng

Năm 1879, Alphonse Bertillon – Nhân trắc học được sử dụng. Tuy nhiên, biện pháp của ông khó thực hiện

Năm 1880, Tiến sĩ Henry Faulds – Ông đưa ra kiến nghị lấy dấu vân tay của tội phạm tại hiện trường xảy ra vụ án và đăng ký luận về gen vân tay trên tạp chí Nature

Năm 1883, Mark Twain – Với cống hiến của ông, việc nhận dạng dấu vân tay được sử dụng để kết án tội phạm.

Năm 1892, Francis Galton – Nhà nhân loại học, em họ của Charles Darwin: Phương pháp thực hành nhận diện dấu vân tay đầu tiên. Đưa ra được các thuật ngữ cơ bản, bằng chứng khoa học về tính vĩnh cửu của dấu vân tay và bài nghiên cứu đầu tiên về anh em sinh đôi.

Ông đã đơn giản hoá việc phân loại vân tay và chia vân tay thành 3 loại lớn: Vân sóng (không có tam giác điểm), vân móc (có 1 tam giác điểm), vân xoáy (có 2 tam giác điểm) – Đó chính là 3 chủng vân tay lớn mà chúng ta sẽ tìm hiểu ở các phần kế tiếp

Năm 1897, Haris Hawthorne Wilder – Người Mỹ đầu tiên nghiên cứu về sinh trắc dấu vân tay: đặt tên các điểm Triradius -Tri Radii a, b, c, d chỉ thông số thông dụng trong bài sinh trắc vân tay.

Ông sáng tạo ra chỉ số Main Line (Đường Chỉ Tay Chính); nghiên cứu về gan bàn tay và mô út – mô dưới ngón út (thenar, hypothenar), các khu II, III, IV.

Năm 1904, Inez Whipple xuất bản Bài nghiên cứu nghiêm túc đầu tiên về dấu vân tay của các loài khác

Năm 1923, Kristine Bonnevie xuất bản bài nghiên cứu đầu tiên về gen

Xem thêm: Hướng dẫn nhận diện các chủng vân tay

Harold Cummins, Cha đẻ của ngành Sinh Trắc Học Dấu Vân Tay

Năm 1926, Tiến sĩ Harold Cummins được xem là cha đẻ của ngành nghiên cứu khoa học dấu vân tay đưa ra lý luận chỉ số cường độ vân tay PI (Pattern Intensity).

Giá trị RC, số lượng tam giác điểm, hình dạng vân tay, vị trí hình dạng vân tay ở những ngón tay khác nhau có liên quan đến tiềm năng và trí tuệ của con người. Ông nghiên cứu ra rằng dấu vân tay được hình thành đồng thời với sự hoàn thiện các cấu trúc của não bộ. Dấu vân tay được khởi tạo ở thai nhi vào giai đoạn từ 13 đến 19 tuần tuổi. 

Vào giai đoạn trước đó, thai nhi không có dấu vân tay đồng thời não bộ cũng chỉ trong giai đoạn hình thành. Khi thai nhi được 19 tuần tuổi cũng là lúc các vùng chính của não hình thành bao gồm cả vỏ đại não.

Sáu năm sau lần đầu được xuất bản, công trình nghiên cứu chuyên sâu của Cummins và Midlo, dấu vân tay, lòng bàn tay, lòng bàn chân, được đánh giá như tài liệu tham khảo về sinh trắc dấu vân tay, vẫn chân. 

Cummins đã vận dụng tất cả các khía cạnh trong phân tích dấu vân tay vào bản thân mình, từ nhân loại học tới gen, từ nghiên cứu về phôi học đến những nghiên cứu về đôi bàn tay dị hình. Ông cũng tổng hợp các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học nghiên cứu trước đó và thêm vào đó những nghiên cứu nguyên sơ. 

Các công trình nghiên cứu của ông về hội chứng Down đã dự đoán về mối liên kết giữa gen và căn bệnh Down trên sự xuất hiện của nếp ngang trong bàn tay. Việc đặt cược danh tiếng của mình vào bài nghiên cứu trở thành khoa học có uy tín hai thập kỷ sau đó đã giúp ông có vai trò và vị trí vững chắc trong lịch sử và thu hút được sự chú ý tới sinh trắc dấu vân tay trên toàn quốc.

Mặc dù Cummins được coi là người có đóng góp to lớn nhất trong lĩnh vực của ông, nhưng các nhà nghiên cứu khác cũng có những đóng góp đáng kể, bao gồm L.S. Penrose, Sarah B. Holt, và Alfred R. Hale. 

Đặc biệt, đối với các dấu vân tay trong cuộc đời, Cuốn sách “Sinh Trắc Vân Tay” này là công trình nghiên cứu của John J. Mulvihill, MD, và David W. Smith, MD. Những người này đã có những bài nghiên cứu toàn diện bao gồm cấu tạo dấu vân tay tuân theo giải phẫu dấu vân tay. Mặt khác, dấu vân tay là một bản đồ.

Xem thêm: Các chỉ số dấu vân tay phổ biến

Các dấu mốc phát triển ngành Sinh Trắc Học Dấu Vân Tay

Năm 1944, Tiến sĩ Tâm lý phân tích Julius Spier Chirologist xuất bản cuốn sách “Bàn tay của trẻ em”. Ông đã khám phá một số điểm đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển tâm sinh lý, chẩn đoán sự mất cân bằng và các vấn đề trong khu vực này từ các mô hình của bàn tay.

Năm 1957, Tiến sĩ Walker sử dụng các cấu hình da trong chẩn đoán Hội chứng Down.

Năm 1958, Noel Jacquin phát hiện ra mối liên hệ giữa tính cách của con người và các loại dấu vân tay.

Năm 1967, Beryl B.Hutchinson phát hiện vân tay học có thể chứng minh đặc trưng tính cách bẩm sinh của mỗi người.

Năm 1969:, John J. Mulvihill, MD và David W. Smith, MD xuất bản cuốn “Thiên tài qua Vân tay”, cung cấp phiên bản mới nhất về sự hình thành của vân tay.

Năm 1970, Liên Xô bắt đầu sử dụng Sinh trắc học dấu vân tay trong việc lựa chọn thí sinh cho Thế vận hội Olympic – Đây là dấu mốc cho sự ứng dụng SINH TRẮC VÂN TAY vào trong các lĩnh vực đời sống, bắt đầu từ ứng dụng trong giáo dục

Năm 1976, Schaumann nghiên cứu các chỉ số trên vân tay của những người bệnh tim bẩm sinh, ung thư, bệnh bạch cầu, bệnh tâm thần phân liệt…. nghiên cứu được hướng vào nghiên cứu di truyền và chẩn đoán của các khuyết tật nhiễm sắc thể – Ứng dụng vào trong y học

Năm 1980, Trung Quốc thực hiện công trình nghiên cứu tiềm năng con người, trí thông minh và tài năng trong vân tay và gen của con người.

Năm 1985, Tiến sĩ Chen Yi Mou – Đại học Harvard nghiên cứu Sinh trắc học dấu vân tay dựa trên Thuyết Đa Thông Minh của Tiến sĩ Howard Gardner. Đây là lần đầu tiên áp dụng Sinh trắc học dấu vân tay trong lĩnh vực giáo dục và chức năng của não liên quan đến dấu vân tay.

Năm 2000, Tiến sĩ Stowens – Giám đốc Bệnh viện St Luke ở New York tuyên bố để có thể chẩn đoán tâm thần phân liệt và bệnh bạch cầu với độ chính xác hơn 90%. Tại Đức, Tiến sĩ Alexander Rodewald tuyên bố có thể xác định khuyết tật bẩm sinh tương đương với độ chính xác 90%.

Năm 2004, Trung tâm IBMBS (Trung tâm Sinh trắc học Xã hội và Hành vi ứng xử quốc tế) đã xuất bản hơn 7000 luận án về Sinh trắc học dấu vân tay. 

Ngày nay, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia…. áp dụng Sinh trắc học dấu vân tay đến các lĩnh vực giáo dục, hy vọng sẽ cải thiện chất lượng giảng dạy và nâng cao hiệu quả học tập bằng cách xác định các phong cách học tập khác nhau. 

Các nhà nghiên cứu khẳng định độ chính xác của Sinh trắc học dấu vân tay rất cao, đó là khả năng dự báo từ các tính năng của tay.

Xu hướng hiện tại của Sinh Trắc Vân Tay

Vậy thì ngành sinh trắc vân tay ngày nay đang có vị trí như thế nào? Trong Sinh trắc học vân tay, Ralph M. Garuto, giáo sư ngành nhân loại học và thần kinh học, đã tổng kết các suy nghĩ của các nhà nghiên cứu y học ngày nay như sau: “Lĩnh vực sinh trắc vân tay… tiếp tục tồn tại, tuy nhiên nó sẽ không phát triển cũng không trở nên không liên quan. Hay nói một cách khác, nguồn đầu từ dành cho nó đã gần như cạn kiệt.

Dù rằng hiện nay việc kiểm tra DNA đã thay thế việc kiểm tra sinh trắc vân tay trong các bài nghiên cứu về anh em song sinh và những bài nghiên cứu y học khác, thì một vài nhà khoa vẫn giữ cái nhìn lạc quan về tương lai, nhấn mạnh rằng phương pháp nghiên cứu sinh trắc dấu vân tay có thể trở thành công cụ cơ bản trong việc đánh giá đặc điểm của một gen phức hợp mà phương pháp DNA không thể giải quyết được.

Hơn thế nữa, bởi vì dấu vân tay và các đường chỉ tay hình thành trong những giai đoạn quan trọng của quá trình phát triển của bào thai, nên nghiên cứu học sinh trắc vân tay vẫn giữ một vị trí độc đáo trong việc đánh giá ảnh hưởng của độc tố trong tử cung.

Sinh trắc học vân tay cũng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình đánh giá trẻ em với những chẩn đoán rối loạn về gen, và những căn bệnh mãn tính, chậm tiến triển, và bộc phát muộn.

Và những phát hiện mới đó là chuột cũng có các loại chủng vân tay đã mở ra một khía cạnh hoàn toàn mới về những triển vọng thực nghiệm. Bonnevie, với tất cả những bài nghiên cứu chi tiết của mình đã bỏ sót phát hiện này (sinh trắc vân tay của chuột khá nhỏ) và cho tới gần đây, vẫn chưa có ai từng được nhìn thấy.

Tổng kết

Như đã được nói, ngành sinh trắc vân tay học phải đối mặt với rất nhiều những khó khăn, bên cạnh vấn đề về vốn. Điều lưu ý đáng thú vị đó là hầu hết những khó khăn được đưa ra thảo luận đều có thể được cải thiện bằng công nghệ scan dấu vân tay mới xuất hiện, cùng cơ sở dữ liệu trên máy tính được cập nhật.

Hãy thử tưởng tượng bạn chỉ cần đưa tay lên trên máy scan và chưa tới ba mươi giây, một bản dữ liệu đã được in ra cùng với một bản phân tích và có thể còn là một bản sơ lược về đường đời) cho bạn và bác sĩ cùng thảo luận. Điều này hoàn toàn không có vấn đề gì, ngoại trừ khoản tiền có thể là 600.000 Đô la Mỹ để hiện thực hóa được điều này.

Lịch sử khoa học đang ngày càng có nhiều những công nghệ mới được tạo ra, cùng với các trang thiết bị hiện đại: Galileo tạo ra kính viễn vọng, hay Loewen tạo ra kính hiển vi và thế giới đang được thay đổi không ngừng. Thật thú vị để dự đoán chuyện gì sẽ xảy ra khi (chứ không phải nếu) mà ngành sinh trắc sử dụng tiến bộ kỹ thuật mà đã được ứng dụng trong các ngành khoa học khác.

Hy vọng những thông tin chúng mình tổng hợp sẽ giúp các bạn, các bậc phụ huynh có cái nhìn rõ ràng và hiểu rõ hơn về ngành Sinh Trắc Vân Tay – Lịch sử phát triển và những nghiên cứu phía trên sẽ giúp các bạn hiểu sứ mệnh và ứng dụng của ngành khoa học này mang lại

0

0

vote

Đánh giá bài viết