Làm thế nào để niên đại địa chất phù hợp với quan điểm về một trái đất trẻ?
Câu hỏi
Làm thế nào để niên đại địa chất phù hợp với quan điểm về một trái đất trẻ?
Trả lời
Câu hỏi làm thế nào niên đại địa chất phù hợp với quan điểm “Trái đất trẻ” là một câu hỏi hay. Lớp vỏ trái đất được kiến tạo từ ba loại đá khác nhau: đá lửa và đá biến chất, cả hai đều từng ở trạng thái nóng chảy hoặc bán nóng chảy, và đá trầm tích, đá từng tồn tại ở nơi khác nhưng được lắng đọng lại dưới dạng trầm tích ở vị trí hiện tại. Đá trầm tích thường được phân tầng. Các tầng này được gọi là “strata.” Strata thường chứa các tàn tích hóa thạch của thực vật và động vật đã bị chôn vùi và sau đó được bảo quản thông qua sự hóa thạch. Một số hóa thạch nhất định đã được tìm thấy đặc biệt trong một số tầng nhất định. Các hóa thạch này được gọi là “hóa thạch chỉ đạo”. Các nhà cổ sinh vật học sử dụng hóa thạch chỉ đạo để xác định các lớp đá nơi chúng được tìm thấy. Nếu một hóa thạch chỉ đạo được cho là 70 triệu năm tuổi, thì lớp đá nơi nó được tìm thấy cũng phải là 70 triệu năm tuổi. “Cột địa chất” là một danh mục tuần tự của các lớp này, các hóa thạch mà chúng chứa và các thời kì đã được phân chia theo các niên đại địa chất khác nhau được cho là được trình bày trong hồ sơ địa chất.
Các nhà phê bình cho rằng cột địa chất bị thiếu sót ở chỗ nó dựa vào lý luận vòng tròn. Điều này là do các tầng strata không phải lúc nào cũng được tìm thấy theo thứ tự mà chúng được giả định. Đôi khi các lớp đá chứa những hóa thạch được cho là có tuổi già hơn lại được tìm thấy nằm bên trên các lớp đá chứa những hóa thạch được cho là có tuổi trẻ hơn (hóa thạch trẻ hơn nên nằm trên cùng). Các nhà địa chất sắp xếp lại các hóa thạch và các lớp đá không nhất quán bằng cách sử dụng thứ tự giả định trong đó các sinh vật được giả định là đã tiến hóa (sinh vật này được cho là đã tiến hóa trước sinh vật kia, vì vậy nó nằm ở dưới, trong khi sinh vật này được cho là đã tiến hóa sau sinh vật kia vì vậy nó nằm ở trên, v.v.) Các nhà sinh học sau đó sử dụng quá trình tiến hóa được sắp xếp bởi các nhà địa chất như là bằng chứng cho quá trình tiến hóa. Đây là một lập luận xoay vòng.
“Một lập luận xoay vòng đề xuất rằng: Giải thích hồ sơ hóa thạch theo các thuật ngữ của một lý thuyết tiến hóa cụ thể, xem xét kỹ việc giải thích này và lưu ý rằng nó xác nhận cho cái lý thuyết đó. Chà, liệu nó có thể như vậy không? (“A Fresh Look at the Fossil Record,” New Scientist, Vol. 108, December 1985, pg. 67) “Liệu các chuyên gia có đang một mặt cho rằng sự tiến hóa được chứng minh bởi địa chất, và một mặt khác lại cho rằng địa chất được chứng minh bằng sự tiến hóa? Đây có phải là một lập luận xoay vòng?” (Larry Azar, “Biologists, Help!” Bioscience, vol. 28, November 1978, p. 714).
Chúng ta sử dụng thuyết tiến hóa để giải thích hồ sơ hóa thạch. Sau đó, chúng ta quay lại và sử dụng các diễn giải của chúng ta về hồ sơ hóa thạch như là bằng chứng cho thuyết tiến hóa. “Và điều này chỉ ra vài điều của một vấn đề: Nếu chúng ta định tuổi cho những loại đá bởi các hóa thạch, thì làm thế nào chúng ta có thể quay ngược lại và nói về các mô hình của sự tiến hóa thay đổi qua thời gian trong hồ sơ hóa thạch? (Niles Eldridge, Time Frames, 1985, p 52) “…Các nhà địa chất học ở đây đang tranh luận trong một vòng tròn. Trình tự của các sinh vật đã được xác định bằng một nghiên cứu những phần còn sót lại của chúng được lưu giữ trong các lớp đá, và tuổi tương đối của các lớp đá được xác định bởi các phần sót lại của các sinh vật mà chúng chứa., (Rastall, Rhology, Ge Encyclopedia Britannica, vol. 10, 1954, trang 168)
Từ lâu, một người sáng suốt không cần chuyên môn cũng đủ nghi ngờ lập luận xoay vòng trong việc sử dụng các lớp đá để định tuổi các hóa thạch và sử dụng các hóa thạch để định tuổi các lớp đá. Các nhà địa chất chưa bao giờ bận tâm để suy nghĩ về một cách câu trả lời tốt, cảm thấy rằng không đáng phải bận tâm đến những sự giải thích miễn là công việc mang lại những kết quả. Đây được cho là chủ nghĩa thực dụng cố chấp. (J. E. O’Rourke, “Pragmatism Versus Materialism in Stratigraphy,” American Journal of Science, vol. 276, January 1976, p. 47)
Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi chúng ta tìm thấy những hóa thạch không thống nhất trong cùng một lớp đá! “Thông thường, hóa thạch không được sắp xếp theo chiều dọc như thứ tự tiến hóa được giả định. Ví dụ, ở U-zơ-bê-kít-tan, 86 dấu móng ngựa liên tiếp được tìm thấy trong các tảng đá có niên đại thời khủng long. Dấu móng chân một số động vật khác được tìm thất cùng với 1.000 dấu chân khủng long ở Virginia (USA). Một chuyên gia hàng đầu ở Grand Canyon đã công bố những bức ảnh in hình giống như móng ngựa có thể nhìn thấy được trong các tảng đá mà theo lý thuyết tiến hóa là có trước động vật móng guốc hơn 100 triệu năm. Những dấu chân khủng long và dấu chân giống của con người được tìm thấy cùng nhau ở Turkmenistan và Arizona.
Đôi khi, động vật trên cạn, động vật bay và động vật biển bị hóa thạch cạnh nhau trong cùng một lớp đá. Khủng long, cá voi, voi, ngựa và các hóa thạch khác, cộng với các công cụ thô sơ của con người, đã được báo cáo là tìm thấy trên những nền phốt phát ở Nam Carolina (USA). Những nền than đá chứa những cục tròn, màu đen gọi là những viên than đá, một số trong đó có chứa những cây hoa được cho là đã tiến hóa 100 triệu năm sau khi lớp than được hình thành. Ở Grand Canyon, ở Venezuela, ở Kashmir và Guyana, các bào tử dương xỉ và phấn hoa từ thực vật có hoa được tìm thấy trong đá Cambrian- loại đá được cho là đã lắng đọng trước khi thực vật có hoa phát triển. Phấn hoa cũng đã được tìm thấy trong các loại đá Precambrian đã lắng đọng trước khi sự sống được cho bắt đầu. (Walt Brown, In the Beginning, 7th edition., 2001, p. 11)
Cây hóa đá ở Khu rừng hóa đá Arizona có chứa những tổ ong hóa thạch và những kén của ong bắp cày. Các khu rừng hóa đá có uy tín 220 triệu năm tuổi, trong khi những con ong (và thực vật có hoa ong cần) được cho là đã được tiến hóa gần 100 triệu năm sau đó. Côn trùng thụ phấn và ruồi hóa thạch, với các ống dài và được phát triển tốt cho việc hút mật từ hoa, có niên đại 25 triệu năm trước khi hoa được cho là bắt đầu xuất hiện. Hầu hết các nhà tiến hóa học và sách giáo khoa đều bỏ qua một cách có hệ thống những khám phá mâu thuẫn với niên đại thời gian theo thuyết tiến hóa, (Brown, ibid).
Hơn nữa, một số hóa thạch chỉ đạo mà các nhà địa chất sử dụng để định tuổi các niên đại đã qua đã được tìm thấy là vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Ví dụ, hãy xem xét cá vây tay, một hóa thạch chỉ đạo được cho là đã tuyệt chủng 70 triệu năm trước. “Cá vây tay Coelacanth là một thành viên của một lớp cá rất cổ xưa được cho là đã biến mất khoảng 70 triệu năm trước. Nhóm cá tuyệt vời này, được gọi là crossoppetgian (cá vây tay), phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ quyết định đó trong lịch sử trái đất — khi cá, phát triển có chân và phổi, đã bước lên để chinh phục các lục địa (Jacques Millot, “The Coelacanths,” Scientific American, vol. 193, December 1955, p. 37). Hoá ra là loài cá vây tay đã không biến mất trong “khoảng 70 triệu năm trước.” Chúng vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay!
Loài cá vây tay còn sống được bắt đầu tiên vào năm 1938 ở dưới sâu Ấn Độ Dương, phía tây bắc Madagascar. Kể từ đó, cá vây tay được treo thưởng, vì vậy hàng trăm con đã bị bắt và bán. Trước năm 1938, các nhà tiến hóa đã định tuổi bất kỳ cục đá nào chứa hóa thạch cá vây tay có ít nhất 70 triệu năm tuổi. Đó là một hóa thạch chỉ đạo. Ngày nay, các nhà tiến hóa thường bày tỏ sự kinh ngạc rằng hóa thạch vây tay trông rất giống với những con cá vây tay còn sống bị bắt — mặc dù đã có hơn 70 triệu năm tiến hóa. Trước khi cá vây tay còn sống bị bắt, các nhà tiến hóa tin một cách không sai lầm rằng cá vây tay có phổi, có một não lớn và bốn vây dưới sắp tiến hoá thành chân. Các nhà tiến hóa lý giải rằng cá vây tay, hoặc một loài cá tương tự, phải bò ra khỏi vùng biển nông và lấp đầy phổi của nó bằng không khí, trở thành động vật bốn chân trên cạn đầu tiên. Hàng triệu sinh viên đã được dạy rằng loài cá này là tổ tiên của tất cả các loài lưỡng cư, bò sát, khủng long, chim và động vật có vú, bao gồm cả con người. (Tổ tiên của bạn có phải là cá không?)
Giáo sư J.L.B Smith, một chuyên gia về cá nổi tiếng từ Nam Phi, người đã độc lập nghiên cứu về hai con cá vây tay bị bắt đầu tiên, có biệt danh là cá vây tay “bốn chân cổ xưa” (Old Fourlegs), và đã viết một cuốn sách theo tiêu đề đó vào năm 1956. Tuy nhiên, vào năm 1987, một nhóm người Đức được dẫn đầu bởi Hans Fricke đã quay phim lại sáu con cá vây tay trong môi trường sống tự nhiên của chúng. Có phải chúng bò trên bốn chân trong một vùng biển nông? Chúng có phổi và một cái não lớn không? Hoàn toàn không. Trên thực tế, chúng sống ở độ sâu 500-1.200 feet dưới mực nước biển và dành phần lớn thời gian để chuối đầu xuống, dường như đang tìm kiếm thức ăn (Walt Brown, In the Beginning, 2001, 7th, trang 29).
Vấn đề là cột địa chất có thể không đáng tin cậy như nhiều nhà khoa học và học giả đưa ra. Chúng tôi kêu gọi mọi người tự điều tra vấn đề này trước khi chấp nhận bất kỳ kết luận nào xuất phát từ phương pháp định tuổi đáng ngờ này.
English
Trở lại trang chủ tiếng Việt
Làm thế nào để niên đại địa chất phù hợp với quan điểm về một trái đất trẻ?
Câu hỏi làm thế nào niên đại địa chất phù hợp với quan điểm “Trái đất trẻ” là một câu hỏi hay. Lớp vỏ trái đất được kiến tạo từ ba loại đá khác nhau: đá lửa và đá biến chất, cả hai đều từng ở trạng thái nóng chảy hoặc bán nóng chảy, và đá trầm tích, đá từng tồn tại ở nơi khác nhưng được lắng đọng lại dưới dạng trầm tích ở vị trí hiện tại. Đá trầm tích thường được phân tầng. Các tầng này được gọi là “strata.” Strata thường chứa các tàn tích hóa thạch của thực vật và động vật đã bị chôn vùi và sau đó được bảo quản thông qua sự hóa thạch. Một số hóa thạch nhất định đã được tìm thấy đặc biệt trong một số tầng nhất định. Các hóa thạch này được gọi là “hóa thạch chỉ đạo”. Các nhà cổ sinh vật học sử dụng hóa thạch chỉ đạo để xác định các lớp đá nơi chúng được tìm thấy. Nếu một hóa thạch chỉ đạo được cho là 70 triệu năm tuổi, thì lớp đá nơi nó được tìm thấy cũng phải là 70 triệu năm tuổi. “Cột địa chất” là một danh mục tuần tự của các lớp này, các hóa thạch mà chúng chứa và các thời kì đã được phân chia theo các niên đại địa chất khác nhau được cho là được trình bày trong hồ sơ địa chất.Các nhà phê bình cho rằng cột địa chất bị thiếu sót ở chỗ nó dựa vào lý luận vòng tròn. Điều này là do các tầng strata không phải lúc nào cũng được tìm thấy theo thứ tự mà chúng được giả định. Đôi khi các lớp đá chứa những hóa thạch được cho là có tuổi già hơn lại được tìm thấy nằm bên trên các lớp đá chứa những hóa thạch được cho là có tuổi trẻ hơn (hóa thạch trẻ hơn nên nằm trên cùng). Các nhà địa chất sắp xếp lại các hóa thạch và các lớp đá không nhất quán bằng cách sử dụng thứ tự giả định trong đó các sinh vật được giả định là đã tiến hóa (sinh vật này được cho là đã tiến hóa trước sinh vật kia, vì vậy nó nằm ở dưới, trong khi sinh vật này được cho là đã tiến hóa sau sinh vật kia vì vậy nó nằm ở trên, v.v.) Các nhà sinh học sau đó sử dụng quá trình tiến hóa được sắp xếp bởi các nhà địa chất như là bằng chứng cho quá trình tiến hóa. Đây là một lập luận xoay vòng.”Một lập luận xoay vòng đề xuất rằng: Giải thích hồ sơ hóa thạch theo các thuật ngữ của một lý thuyết tiến hóa cụ thể, xem xét kỹ việc giải thích này và lưu ý rằng nó xác nhận cho cái lý thuyết đó. Chà, liệu nó có thể như vậy không? (“A Fresh Look at the Fossil Record,”, Vol. 108, December 1985, pg. 67) “Liệu các chuyên gia có đang một mặt cho rằng sự tiến hóa được chứng minh bởi địa chất, và một mặt khác lại cho rằng địa chất được chứng minh bằng sự tiến hóa? Đây có phải là một lập luận xoay vòng?” (Larry Azar, “Biologists, Help!”, vol. 28, November 1978, p. 714).Chúng ta sử dụng thuyết tiến hóa để giải thích hồ sơ hóa thạch. Sau đó, chúng ta quay lại và sử dụng các diễn giải của chúng ta về hồ sơ hóa thạch như là bằng chứng cho thuyết tiến hóa. “Và điều này chỉ ra vài điều của một vấn đề: Nếu chúng ta định tuổi cho những loại đá bởi các hóa thạch, thì làm thế nào chúng ta có thể quay ngược lại và nói về các mô hình của sự tiến hóa thay đổi qua thời gian trong hồ sơ hóa thạch? (Niles Eldridge, Time Frames, 1985, p 52) “…Các nhà địa chất học ở đây đang tranh luận trong một vòng tròn. Trình tự của các sinh vật đã được xác định bằng một nghiên cứu những phần còn sót lại của chúng được lưu giữ trong các lớp đá, và tuổi tương đối của các lớp đá được xác định bởi các phần sót lại của các sinh vật mà chúng chứa., (Rastall, Rhology, Ge Encyclopedia Britannica, vol. 10, 1954, trang 168)Từ lâu, một người sáng suốt không cần chuyên môn cũng đủ nghi ngờ lập luận xoay vòng trong việc sử dụng các lớp đá để định tuổi các hóa thạch và sử dụng các hóa thạch để định tuổi các lớp đá. Các nhà địa chất chưa bao giờ bận tâm để suy nghĩ về một cách câu trả lời tốt, cảm thấy rằng không đáng phải bận tâm đến những sự giải thích miễn là công việc mang lại những kết quả. Đây được cho là chủ nghĩa thực dụng cố chấp. (J. E. O’Rourke, “Pragmatism Versus Materialism in Stratigraphy,”, vol. 276, January 1976, p. 47)Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi chúng ta tìm thấy những hóa thạch không thống nhất trong cùng một lớp đá! “Thông thường, hóa thạch không được sắp xếp theo chiều dọc như thứ tự tiến hóa được giả định. Ví dụ, ở U-zơ-bê-kít-tan, 86 dấu móng ngựa liên tiếp được tìm thấy trong các tảng đá có niên đại thời khủng long. Dấu móng chân một số động vật khác được tìm thất cùng với 1.000 dấu chân khủng long ở Virginia (USA). Một chuyên gia hàng đầu ở Grand Canyon đã công bố những bức ảnh in hình giống như móng ngựa có thể nhìn thấy được trong các tảng đá mà theo lý thuyết tiến hóa là có trước động vật móng guốc hơn 100 triệu năm. Những dấu chân khủng long và dấu chân giống của con người được tìm thấy cùng nhau ở Turkmenistan và Arizona.Đôi khi, động vật trên cạn, động vật bay và động vật biển bị hóa thạch cạnh nhau trong cùng một lớp đá. Khủng long, cá voi, voi, ngựa và các hóa thạch khác, cộng với các công cụ thô sơ của con người, đã được báo cáo là tìm thấy trên những nền phốt phát ở Nam Carolina (USA). Những nền than đá chứa những cục tròn, màu đen gọi là những viên than đá, một số trong đó có chứa những cây hoa được cho là đã tiến hóa 100 triệu năm sau khi lớp than được hình thành. Ở Grand Canyon, ở Venezuela, ở Kashmir và Guyana, các bào tử dương xỉ và phấn hoa từ thực vật có hoa được tìm thấy trong đá Cambrian- loại đá được cho là đã lắng đọng trước khi thực vật có hoa phát triển. Phấn hoa cũng đã được tìm thấy trong các loại đá Precambrian đã lắng đọng trước khi sự sống được cho bắt đầu. (Walt Brown, In the Beginning, 7th edition., 2001, p. 11)Cây hóa đá ở Khu rừng hóa đá Arizona có chứa những tổ ong hóa thạch và những kén của ong bắp cày. Các khu rừng hóa đá có uy tín 220 triệu năm tuổi, trong khi những con ong (và thực vật có hoa ong cần) được cho là đã được tiến hóa gần 100 triệu năm sau đó. Côn trùng thụ phấn và ruồi hóa thạch, với các ống dài và được phát triển tốt cho việc hút mật từ hoa, có niên đại 25 triệu năm trước khi hoa được cho là bắt đầu xuất hiện. Hầu hết các nhà tiến hóa học và sách giáo khoa đều bỏ qua một cách có hệ thống những khám phá mâu thuẫn với niên đại thời gian theo thuyết tiến hóa, (Brown, ibid).Hơn nữa, một số hóa thạch chỉ đạo mà các nhà địa chất sử dụng để định tuổi các niên đại đã qua đã được tìm thấy là vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Ví dụ, hãy xem xét cá vây tay, một hóa thạch chỉ đạo được cho là đã tuyệt chủng 70 triệu năm trước. “Cá vây tay Coelacanth là một thành viên của một lớp cá rất cổ xưa được cho là đã biến mất khoảng 70 triệu năm trước. Nhóm cá tuyệt vời này, được gọi là crossoppetgian (cá vây tay), phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ quyết định đó trong lịch sử trái đất — khi cá, phát triển có chân và phổi, đã bước lên để chinh phục các lục địa (Jacques Millot, “The Coelacanths,”, vol. 193, December 1955, p. 37). Hoá ra là loài cá vây tay đã không biến mất trong “khoảng 70 triệu năm trước.” Chúng vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay!Loài cá vây tay còn sống được bắt đầu tiên vào năm 1938 ở dưới sâu Ấn Độ Dương, phía tây bắc Madagascar. Kể từ đó, cá vây tay được treo thưởng, vì vậy hàng trăm con đã bị bắt và bán. Trước năm 1938, các nhà tiến hóa đã định tuổi bất kỳ cục đá nào chứa hóa thạch cá vây tay có ít nhất 70 triệu năm tuổi. Đó là một hóa thạch chỉ đạo. Ngày nay, các nhà tiến hóa thường bày tỏ sự kinh ngạc rằng hóa thạch vây tay trông rất giống với những con cá vây tay còn sống bị bắt — mặc dù đã có hơn 70 triệu năm tiến hóa. Trước khi cá vây tay còn sống bị bắt, các nhà tiến hóa tin một cách không sai lầm rằng cá vây tay có phổi, có một não lớn và bốn vây dưới sắp tiến hoá thành chân. Các nhà tiến hóa lý giải rằng cá vây tay, hoặc một loài cá tương tự, phải bò ra khỏi vùng biển nông và lấp đầy phổi của nó bằng không khí, trở thành động vật bốn chân trên cạn đầu tiên. Hàng triệu sinh viên đã được dạy rằng loài cá này là tổ tiên của tất cả các loài lưỡng cư, bò sát, khủng long, chim và động vật có vú, bao gồm cả con người. (Tổ tiên của bạn có phải là cá không?)Giáo sư J.L.B Smith, một chuyên gia về cá nổi tiếng từ Nam Phi, người đã độc lập nghiên cứu về hai con cá vây tay bị bắt đầu tiên, có biệt danh là cá vây tay “bốn chân cổ xưa” (Old Fourlegs), và đã viết một cuốn sách theo tiêu đề đó vào năm 1956. Tuy nhiên, vào năm 1987, một nhóm người Đức được dẫn đầu bởi Hans Fricke đã quay phim lại sáu con cá vây tay trong môi trường sống tự nhiên của chúng. Có phải chúng bò trên bốn chân trong một vùng biển nông? Chúng có phổi và một cái não lớn không? Hoàn toàn không. Trên thực tế, chúng sống ở độ sâu 500-1.200 feet dưới mực nước biển và dành phần lớn thời gian để chuối đầu xuống, dường như đang tìm kiếm thức ăn (Walt Brown, In the Beginning, 2001, 7th, trang 29).Vấn đề là cột địa chất có thể không đáng tin cậy như nhiều nhà khoa học và học giả đưa ra. Chúng tôi kêu gọi mọi người tự điều tra vấn đề này trước khi chấp nhận bất kỳ kết luận nào xuất phát từ phương pháp định tuổi đáng ngờ này.