Không khai thì phải tự chịu toàn bộ trách nhiệm :: Đoàn luật sư Tp. Hồ Chí Minh

KHÔNG KHAI THÌ PHẢI TỰ CHỊU TOÀN BỘ TRÁCH NHIỆM

Bên cạnh những bất cập về mặt chứng cứ buộc tội mà báo chí đưa tin như: “Chữ viết lạ” trên tờ ủy nhiệm chi của công ty… theo lời của nhân viên ngân hàng tên Diễm, có hai cô gái mang tờ ủy nhiệm chi đến làm thủ tục chuyển tiền. Kiểm tra trong máy tính xong Diễm ngước lên thì không thấy hai cô gái đâu mà lại thấy một nhân viên nam quen mặt của công ty. Người này xác nhận  dấu mộc trên ủy nhiệm chi đúng là của công ty nên Diễm đã thực hiện lệnh chuyển tiền.

Qua thông tin vừa nêu, nghi vấn được đặt ra: Khi ngước lên, Diễm không thấy hai cô gái mang giấy ủy nhiệm chi đến làm thủ tục chuyển tiền mà Diễm vẫn thực hiện lệnh chuyển tiền (cho dù có xác nhận của một nhân viên “quen mặt” của công ty rằng con dấu mộc trên ủy nhiệm chi đúng là của công ty). Tại sao Diễm không đợi hai người mang ủy nhiệm chi quay lại rồi mới thực hiện lệnh chuyển tiền?.

Khi bị khởi tố điều tra, trước sau như một An đều khai: Chữ viết trên ủy nhiệm chi, giấy đề nghị mở tài khoản cá nhân tên T, giấy nộp tiền vào tài khoản T do mình viết khi còn làm việc ở công ty theo chỉ đạo của bà B. Sau khi nghỉ việc, An không biết gì nữa. Để có chứng cứ giải quyết vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định chữ viết, chữ ký của bị can. Qua ba lần giám định, kết quả giám định lần thứ ba của Phân Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an thể hiện: Chữ viết trên ủy nhiệm chi, trên giấy đề nghị mở tài khoản tên T, giấy xác nhận lấy thẻ ATM tên T, giấy nộp tiền vào tài khoản đều do An viết. Kết luận này phù hợp với sự nhìn nhận của An. Nhưng các gút mắc mà An nêu ra như: Các giấy tờ liên quan An viết khi còn làm việc tại cơ quan theo lệnh thượng cấp… Thực hư ra sao, nhất thiết phải được làm rõ: Có phải An viết tài liệu nói trên theo chỉ đạo của bà B, dấu mực viết trên tài liệu trước khi xảy ra vụ án bao lâu, tại sao đã nghỉ việc 03 tháng rồi mà tài liệu ấy An còn cất giữ, quy trình quản lý, lưu trữ hồ sơ (nhất là hồ sơ thu chi tài chính) được thực hiện như thế nào? Ngoài ra, cũng cần làm rõ các tình tiết quan trọng khác như: An lấy con dấu ở đâu ra để đóng vào tờ ủy nhiệm chi? An không phải là người quản lý con dấu, không có thẩm quyền yêu cầu người giữ con dấu đóng dấu vào tài liệu giao dịch của công ty thì lấy đâu ra con dấu để đóng vào tờ ủy nhiệm chi? Nếu An lén lút lấy con dấu thì ai hớ hênh để An trộm con dấu? Hay người giữ con dấu tiếp tay cho An? Trường hợp dấu mộc là giả thì tại sao nhân viên ngân hàng vẫn làm ngơ? Một loạt những tình tiết mập mờ, trái quấy chưa được cấp sơ thẩm làm rõ…

Với những mâu thuẫn, thiếu sót hệ trọng như thế, sự thật vụ án chưa được làm sáng tỏ mà tòa án cấp sơ thẩm vẫn quy buộc An “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” lại còn nhận định: Vụ án có đồng phạm khác nhưng An không khai nên An phải chịu toàn bộ trách nhiệm!.

Nói như thế đâu có được, bởi vì luật định: Nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng kia mà.
Dù bị can, bị cáo không khai, cơ quan điều tra phải xác định tính chất hành vi, vai trò, mức độ phạm tội của bị can, bị cáo để làm căn cứ xử lý họ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào bản kết luận giám định của Phân Viện Khoa học Hình sự còn bỏ ngỏ về việc xác định dạng tự của Nhi: …không thể hiện đặc trưng điểm riêng cơ bản…! Kết quả trưng cầu giám định “nửa vời”. Hai lần tổ chức giám định Công an tỉnh Bình Dương khẳng định: Chữ viết trên tờ ủy nhiệm chi có nội dung “không đăng ký” của Nhi trong khi đó trước sau như một Nhi đều phủ nhận. “…Những chữ số ngày tháng năm trên các giấy tờ này và chữ “không đăng ký” trên ủy nhiệm chi thì không đủ cơ sở giám định do số lượng chữ ít, không thể hiện đặc điểm riêng cơ bản. Với kết quả giám định vừa đề cập, cơ quan tiến hành tố tụng đã tha tội người này (Nhi), kết tội người kia (An).

Vấn đề cần đặt ra: Kết quả của cơ quan giám định, số lần giám định, cá nhân, Hội đồng giám định nào được xác định là chứng cứ hợp pháp cuối cùng để cơ quan tiến hành tố tụng làm căn cứ giải quyết vụ án. Việc giám định phải được luật hóa chứ không chìu theo ý muốn chủ quan của cá nhân, tổ chức liên quan.

Mặt khác, hiện nay kết luận giám định được xem là “thần hộ mệnh” để cơ quan tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, bị cáo. Trong khi cơ quan giám định kết luận “thả nổi”: …không đủ cơ sở giám định do số lượng chữ ít… thì đình chỉ bị can. Như vậy, phải làm sao cho đủ chữ viết để thực hiện việc giám định? Đành rằng đình chỉ điều tra là có lợi cho Nhi, nhưng liệu làm như thế có lọt người, lọt tội hay không? Dựa vào kết luận giám định của Phân Viện Khoa học Hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng đình chỉ điều tra đối với Nhi còn An thì chẳng những bị quy buộc tội lừa đảo mà còn phải chịu toàn bộ trách nhiệm do “biết mà không khai” ?! Sao một bên trọng (Nhi), bên khinh (An) như thế?
Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội.

Ở đây, An không hề nhận tội mà còn phủ nhận hành vi phạm tội. Hơn nữa, việc xác nhận sự thật vụ án là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Điều 10 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội.

Theo chúng tôi, trong lúc chờ đợi Nhà nước hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan trong việc xác định hành vi phạm tội phải căn cứ vào kết quả giám định tư pháp thì đối với chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án các cơ quan hữu quan cần nâng cao nghiệp vụ, tăng cường trách nhiệm và phối hợp chặt chẽ trong hoạt động tố tụng để việc giải quyết vụ án đạt kết quả tốt, tránh oan sai đối với người ngay, bỏ lọt tội đối với kẻ gian.

Luật sư Trần Công Ly Tao