Hà Nam có gì?
Hà Nam là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng, trong quy hoạch thuộc vùng thủ đô Hà Nội. Nơi đây là vùng đất mang bề dày lịch sử văn hóa với những địa điểm lịch sử nổi tiếng. Hà Nam cũng có nhiều cảnh đẹp thiên nhiên thơ mộng hữu tình. Hà Nam có gì? Hãy cùng chúng tôi khám phá những địa điểm danh lam thắng cảnh đẹp tại Hà Nam trong bài viết sau đây nhé.
2
Động Phúc Long – Hà Nam
Động Phúc Long có vị trí trong khu núi Chùa, núi Chùa là ngọn núi trung tâm dãy núi Kiện Khê, phía trên có chùa Hang và khu miếu thờ thần. Theo tục truyền lại xưa kia trên dãy núi Chùa có rồng quây quần trên đỉnh, có cây tùng cổ thụ, vì thế nơi đây được xem như cổ tích danh thắng đẹp ở Hà Nam.
Núi Chùa có có khối đá lớn xếp chồng lên nhau theo thứ tự, đầu mỏm đá lởm chởm, hình thù kì dị như chiếc đầu rồng, có những ngọn đá nhọn lên như sừng rồng và ngôi chùa như tâm điểm miệng con rồng. Đường lên núi không quá khó bởi có nhiều thềm đá xếp thành từng bậc rất thích hợp cho việc lên khám phá.
Phía trên đỉnh núi bạn có thể phóng tầm mắt ra xa ngắm vẻ đẹp của núi Bút Sơn, rừng Thanh Thủy, sông Đáy nên thơ trữ tình. Khám phá động Phúc Long trên ngọn núi, ta đi vào trong động gặp một ngã ba, rẽ theo hướng bên phải ta thấy hàng chục hang động với nhiều thạch nhũ lóng lánh, đi sang trái ta gặp đường đầy đá nhô lên cao, muôn hình vạn trạng.
Trong động Phúc Long có rất nhiều loài dơi cư ngụ, hơn nữa động có dáng giống con rồng thắt túi, lòng hang rộng với sức chứa lên tới vài trăm người. Cùng hòa với cảnh quan đình thôn Châu cùng núi Chùa hùng vĩ nơi đây đang là điểm đến hút khách ở Hà Nam.
3
Hang Luồn và ao Dong – Hà Nam
Ao Dong thuộc địa phận xã Liên Sơn, huyện Kim Bảng. Lọt thỏm giữa bao quanh bốn bề là những ngọn núi đá sừng sững, ao Dong bất ngờ hiện ra bằng một khoảng nước trong mát, tĩnh lặng.Ao Dong rộng khoảng 300 mẫu, nước Ao Dong trong vắt một màu. Do đó, ngồi trên thuyền du khách có thể nhìn thấy từng đàn cá tung tăng bơi lội, và các thảm thực vật nhiều màu sắc kỳ lạ dưới đáy ao.
Xuất phát từ cây cầu Tình Yêu, du khách ngồi trên thuyền sẽ bắt đầu hành trình khám phá hang Luồn. Cửa hang tương đối rộng, độ cao tùy thuộc vào mùa con nước. Hang Luồn có chiều dài khoảng 400m, kích thước khá nhỏ, nhưng vòm cửa hang rộng với những tán cây xòa bóng. Trong không gian âm tối, chỉ có tiếng gió và tiếng khỏa nước mỗi khi con thuyền tiến về phía trước, còn du khách thì háo hức quét ánh sáng đèn pin tới từng ngóc ngách trong hang để kiếm tìm những hình thù thạch nhũ dị biệt.
Quay trở ngược về phía cửa hang, qua ao Dong, rồi lại qua gầm cầu Tình Yêu, thuyền tiến vào một hang động khác. Đây là hang cùng, có độ dài khoảng 100m, nhưng bề rộng cũng tương đương hang Luồn. Điểm đặc biệt của hang này là có một khoảng đất tương đối bằng phẳng, rộng rãi, du khách có thể nghỉ ngơi trên đó. Cùng với không gian thoáng đãng và khí hậu mát mẻ, nơi đây chính là lựa chọn tuyệt vời cho những du khách yêu thích thiên nhiên.
4
Bát Cảnh Sơn – Hà Nam
Bát Cảnh Sơn là khu di tích nằm trên xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam và một phần trên dãy Hương Tích, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), tạo thành thế núi hình sông kỳ thú. Với hình sông thế núi ấy cùng với hệ thống đền, chùa cổ kính uy nghiêm, nơi đây từ xưa được coi là một thắng cảnh của trấn Sơn Nam
Quần thể Bát Cảnh Sơn bao gồm; Đền Tiên Ông (đền Ông), chùa Ông, chùa Tam Giáo, chùa Kiêu, chùa Bà, chùa Cả, chùa Vân Mộng… Với cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, với những dấu tích xưa còn lại, quần thể Bát Cảnh Sơn được nghiên cứu đầu tư xây dựng để sớm đưa nơi đây trở thành điểm du lịch sinh thái – văn hoá hấp dẫn của Hà Nam.
Theo Lịch triều hiến chương loại chí (phần Dư địa chí) của Phan Huy Chú thì vào thế kỷ thứ 16, Nghị tổ Trịnh Doanh qua đây chiêm ngưỡng đã ví Bát cảnh sơn với Tiêu Tương bên Trung Quốc và cho lập hành cung để đi về thưởng ngoạn.
Xưa kia, ở Bát cảnh Sơn có 8 ngôi chùa và một ngôi miếu thờ thổ đại thần linh được bài trí xây dựng theo thuyết bát quái ngũ hành, cũng từ đó cái tên Bát Cảnh Sơn đã được đặt cho nơi đây. Tuy nhiên, một điều đáng tiếc là do thời gian và chiến tranh tàn phá, thắng cảnh Bát Cảnh Sơn đã bị phá hoại đi rất nhiều. Trong số 8 ngôi chùa, miếu thờ chỉ còn lại 3 ngôi chùa còn nguyên vẹn, đó là đền tiên ông và chùa Tam Giáo, chùa Ông.
Từ chùa Kiêu, vượt qua đường đèo và những sườn núi cheo leo là đến chùa Vân Mộng, tương truyền chùa Vân Mông là nơi mà Thiền sư Nguyễn Minh Không đã từng tu hành và trụ trì. Tục truyền, vua nhà Lý bị đau mắt không phương thuốc nào chữa được. Nhà Vua nghe tin tại chùa Vân Mộng có Quỷ Cốc tiên sinh thông tuệ thiên địa bèn đến cầu, quỷ cốc tiên sinh cho rằng nhà vua đau mắt là do động huyệt xoáy rồng ở khúc sông Hồng, cần có người hiến tế thì nhà vua mới khỏi bệnh. Sau có ông bà bán dầu Vũ Phục nhảy xuống sông, quả nhiên nhà vua lành mắt. Ngôi chùa cũng đã đi vào sách vở với ghi chép của Lê Quý Đôn trong Vân đài loại ngữ.
Trong quần thể Bát Cảnh Sơn ngày nay vẫn còn địa danh suối Cau trong dãy núi đá vôi (nay gọi là suối Tân Lang) và chợ Trầu (nay là chợ Giầu), vốn là 2 địa chỉ văn hóa không chỉ thỏa mãn thú ngao du sơn thủy mà còn là nơi để du khách tìm hiểu về sự phát tích của truyện dân gian Trầu cau, một câu chuyện liên quan đến tập tục ăn trầu của người Việt.
Với cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, với những dấu tích xưa còn lại, quần thể Bát cảnh sơn nếu được khai thác đúng hướng chắc chắn sẽ trở thành một điểm du lịch sinh thái – văn hoá hấp dẫn trên đất Kim Bảng, Hà Nam.
5
Chùa Long Đọi Sơn – Hà Nam
Chùa Long Đọi Sơn – Ngôi chùa cổ độc đáo, được xây dựng dưới thời Lý gần 1.000 năm tuổi nằm trên đỉnh ngọn núi Đọi (thuộc xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam Chùa Đọi Sơn tọa lạc trên đỉnh núi Long Đọi, thuộc địa phận xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên. Trải qua gần một nghìn năm, với bao thăng trầm của lịch sử, chùa vẫn được biết tới là một danh thắng nổi tiếng, là trung tâm Phật giáo của trấn Sơn Nam xưa.
Quần thể di tích Long Đọi Sơn có kiến trúc khang trang, với khuôn viên xây dựng rộng tới 10.000m2. Từ dưới chân núi, qua 373 bậc thang bằng đá xẻ, đá phiến, có bóng cây che mát, du khách sẽ lên chùa Đọi Sơn.Tương truyền, dưới thời Lý chùa mang tên là Long Đội Sơn, đến thời Hậu Lê đổi tên là Đọi Sơn.
Ngôi chùa hiện chùa còn giữ được nhiều di vật quý như: tượng Phật Di Lặc bằng đồng ở chính điện; 6 pho tượng Kim Cương bằng đá, cao 1,60m; bia đá Diên Linh (dựng năm 1121), cao 2,88m, rộng 1,40m và dày 0,29cm, đặt trên đế đá chạm rồng, hình chạm khắc và hoa văn trang trí trên bia mang đậm phong cách thời Lý; 4 pho tượng hình người có cánh cao 40cm, bề ngang 30cm.Quanh chân núi có 9 giếng nước tự nhiên mà dân gian gọi là chín mắt rồng.
Từ trên đỉnh núi phóng tầm mắt ra bốn phía, khung cảnh khoáng đạt, nên thơ, có cánh đồng lúa, bãi ngô, ruộng khoai mượt mà, tươi xanh, chân núi có dòng Châu Giang quanh co lượn khúc như dải lụa đào uốn quanh.Quần thể di tích danh thắng Long Đọi Sơn ngày càng khẳng định giá trị lịch sử, văn hóa và du lịch to lớn, khắc sâu thêm biểu tượng của quê hương núi Đọi, sông Châu trên bản đồ Hà Nam.
6
Kẽm Trống – Hà Nam
Kẽm Trống là danh thắng quốc gia được công nhận năm 1962, cách thủ đô Hà Nội 80km về phía Nam theo đường quốc lộ 1A, nằm giữa địa phận của 2 tỉnh Hà Nam và Ninh Bình. Kẽm Trống có thể hiểu đơn giản là nơi dòng sông Đáy chảy qua hai ngọn núi, bên tả có núi Rùa, núi Cổ Động…thuộc tỉnh Hà Nam; bên hữu có núi Bài Thơ, dãy núi Bạt Gia thuộc tỉnh Ninh Bình. Ngoài núi và sông, khi tới đây, du khách còn được chiêm ngưỡng rất nhiều hang động kì ảo với vô số thạch nhũ đủ mọi hình dáng trải dài khắp các hang.
Kẽm Trống cũng chính là địa danh được thi sĩ Hồ Xuân Hương vịnh cảnh nên thơ mà ai ở vùng đó cũng thuộc vài câu cho đến tận ngày nay:
“Hai bên thì núi, giữa thì sông
Có phải đây là Kẽm Trống không
Gió đập cành cây khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
Ở trong hang đá hơi còn hẹp
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng
Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại
Nào ai có biết nỗi bưng bồng”
Tương truyền, có lần vua Minh Mạng muốn xuôi dòng sông Đáy để vãn cảnh Kẽm Trống và Địch Lộng (Ninh Bình) nhưng khi được biết về bài thơ với nhiều ẩn ý tinh nghịch, thâm thúy này của Hồ Xuân Hương, nhà vua nhất định không chịu đi qua sông mà bắt dân trong vùng đào một con sông mới khác để thuyền vua đi qua. Do vậy mới có con sông đào bên cạnh ngày nay vòng qua. Du lịch Hà Nam du khách đừng nên bỏ qua một lựa chọn vô cùng hấp dẫn là Kẽm Trống.
7
Đền Lãnh Giang – Hà Nam
Đền Lảnh Giang còn có tên gọi khác là Lảnh Giang linh từ, nằm trên thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên. Ngôi đền này thờ 3 vị danh thần đời Hùng Vương thứ 18 và Tiên Dung công chúa. Kề bên đền Lảnh Giang về phía bờ sông là ngôi đền thờ Cô Bơ Thoải Phủ (hệ thống thờ Đạo Mẫu Việt Nam).
Diện tích đền vào khoảng 3.000 m2, quanh đền không có núi đồi nhưng lại biêng biếc với màu xanh của rừng nhãn, bến nước, đầm sen, phảng phất hào khí của một miền địa linh nhân kiệt, phồn thịnh êm đềm. Cửa đền nhìn hướng ra là dòng sông Nhị Hà hay Sông Hồng. Phía Tây đền cách khoảng 300m là màu xanh của lúa, bảng lảng khói lam chiều, thấp thoáng đền thở Đức Vua (vua Lê). Giáp xã Mộc Nam về phía bắc Lảnh Giang, thôn Yên Từ, Mộc Bắc trầm mặc ngôi đền thờ Ngọc Hoa công chúa, em gái Tiên Dung. Phía nam giáp làng Nha Xá, đình thờ Trần Khánh Dư, vị tướng tài giỏi của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người đã có công đánh giặc Nguyên Mông trên chiến tuyến Vân Đồn (Quảng Ninh).
Tam quan đền được xây theo kiểu chồng diêm tám mái, các đầu đao cong vút theo hình đầu rồng đắp nổi, đan xen mặt nguyệt, lá lật cách điệu mềm mại. Đằng trước Tam quan là hồ bán nguyện với nước hồ phẳng lặng như bàn ngọc thạch bày lên những đóa hoa súng đỏ tươi. Giữa hồ có hồn bảo tháp đứng trang nghiêm được nối với đền bằng chiếc cầu cong tạc theo lưỡi long hướng địa, ẩn hiện dưới bóng cây si già hàng ngàn năm tuổi.
Đền Lảnh Giang được xây dựng theo thiết kế nội công ngoại quốc bao gồm 3 tòa, 14 gian hai bên có nhà khách, lầu thờ và 4 bên có tường gạch bao quanh. Trong đền thờ tượng Tiên Dung công chúa, khánh long đình, khám đặt tượng thờ 3 vị tướng thời Hùng vương được chạm khắc công phu theo phong cách đời Lê. Đền còn vinh dự giữ được hai kiệu bát cống long đình, một sập thờ và nhiều hoành phi, câu đối, nhang án.
Đền Lảnh Giang còn có tên gọi là Lảnh Giang linh từ, tọa lạc tại thôn Từ thị trấn Đồng Văn, theo quốc lộ 60A đi 8km đến ngã ba thị trấn Hòa Mạc, rẽ trái đi 5km đến bến đò Yên Lệnh, ngược bờ đê sông Hồng 3km là tới đền. Hiện nay, ngôi đền này vẫn chưa xác định được thời gian xây dựng. Qua năm tháng khắc nghiệt của thời gian, ngôi đền bị mai một nhưng lại được nhân dân địa phương xây dựng thờ cúng, ngôi đền có quy mô và bề thế như hiện nay.
Mỗi năm, đền tổ chức hai lễ hội, từ ngày 2 đến 5 tháng 6 âm lịch và 20 tháng 8 âm lịch. Đầu tiên nghi thức tế lễ, rước thánh được tổ chức đầu tiên thu hút hàng ngàn khách thăm quan về xem và thành tâm. Ngoài phần lễ còn có phần hội gồm nhiều hoạt động hấp dẫn như: Diễn xướng dân gian hầu Thánh (hát chầu Văn) tái hiện huyền tích vị Thánh đền Lảnh Giang; múa rồng, múa lân, múa sư tử, võ vật, chọi gà, đánh gậy, đấu cờ người, tổ tôm điếm, thi thổi cơm trên quang gánh, diễn tập trận giả, hát chầu văn, thi bơi chải trên sông Hồng…
Vào ngày mùng 5 tháng 11 năm 1996 đền Lãnh Giang được Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
8
Đền Trần Thương – Hà Nam
Đền Trần Thương là di tích tiêu biểu của Hà Nam nói riêng và cả nước nói chung, mang nhiều ý nghĩa lịch sử, văn hóa, tâm linh, suốt hàng thế kỷ qua vẫn tồn tại sừng sững cùng đất trời.
Đây là nơi thờ vị Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo cùng gia quyến và các Bộ tướng có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông thế kỷ XIII. Dân gian xưa nay vẫn có câu nói truyền miệng: “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc” là ý nói đền Trần Thương là nơi được Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn gửi gắm mộ phần lúc sinh thời.
Tương truyền, nơi đây trước là vùng nước trũng, lau sậy um tùm, dân cư thưa thớt, lại có 6 gò đất cao nổi lên, khó với địch nhưng dễ với ta; Trần Hưng Đạo quyết định lập 6 kho lương tại đây phục vụ kháng chiến chống Nguyên Mông và Trần Thương là kho lương chính. Do vậy, ngày nay, cứ vào ngày Rằm tháng Giêng hàng năm, nhân dân trong vùng và khách thập phương lại nô nức kéo về đây nhận phát lương ban lộc đầu năm của Đức Thánh Trần.
Hội chính của đền Trần Thương mở từ ngày 18 đến 20 tháng 8 âm lịch với nhiều hoạt động văn hóa dân gian độc đáo nhắc nhở về truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Nếu có dịp đến thăm Hà Nam vào dịp Tết, nhớ đừng quên qua đền Trần Thương thắp một nén nhang tưởng nhớ vị anh hùng đã được tôn làm Đức Thánh Trần cũng như chiêm ngưỡng kiến trúc của một địa danh gắn với trang sử hào hùng của dân tộc.
9
Đền Trúc – Ngũ Động Sơn – Hà Nam
Quần thể đền Trúc – Ngũ Động Sơn thờ người anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt, tọa lạc giữa không gian xanh mát sơn thủy hữu tình, có núi có sông, có hang động kỳ thú nằm giữa rừng trúc nên thơ.
Tương truyền, vào năm 1089, đoàn chiến thuyền của Lý Thường Kiệt đi chinh phạt qua thôn Quyển Sơn. Bỗng nhiên có trận gió lớn ào ào thổi tới, bẻ gãy cột buồm rồi cuốn lá cờ của đoàn quân lên đỉnh Núi Cấm. Lý Thường Kiệt thấy lạ bèn cho thuyền dừng lại, cùng quân sĩ lên bờ làm lễ tế trời đất cầu đại thắng. Lần đó, thắng lớn trở về, Lý Thường Kiệt đã cùng đoàn quân lên đây làm lễ tạ ơn, khao thưởng ba quân và mở hội cho dân làng mừng chiến thắng. Ông đặt tên cho ngọn núi là Cuốn Sơn để tưởng nhớ công lao của vị anh hùng dân tộc, dân làng đã lập đền thờ ở chính nơi ông mở hội, đó là đền Trúc ngày nay.
Ngôi đền được làm bằng gỗ lim, xây dựng theo kiểu chữ Đinh, gồm cổng đền, tiền đường và hậu cung, xung quanh rợp bóng trúc. Cạnh đền Trúc là ngọn núi Cấm hay còn gọi là núi Cuốn Sơn gắn với sự tích xa xưa. Men theo đường mòn lên đỉnh núi, du khách sẽ tìm thấy một bàn cờ thiên tạo bằng đá rất đặc biệt cũng như được chiêm ngưỡng bức tranh toàn cảnh hữu tình. Trong lòng núi Cấm là hệ thống Ngũ Động gồm 5 động liên hoàn dài hơn 100m với cấu trúc các động đa dạng cùng nhiều loại thạch nhũ muôn hình vạn trạng.
Hàng năm, lễ hội đền Trúc diễn ra từ ngày mồng 1 tháng Giêng đến ngày mồng 10 tháng 2 âm lịch với nhiều nghi lễ cổ truyền, trò chơi dân gian hấp dẫn, múa hát Dậm và đua thuyền. Đền Trúc – Ngũ Động Sơn chắc chắn sẽ là một điểm đến hấp dẫn cuối tuần mới lạ cho du khách.
10
Đền Vũ Điện – Hà Nam
Đền Vũ Điện còn có tên gọi là đền Bà Vũ, nơi thờ vợ chàng Trương. Nói đến vợ chàng Trương nhiều người sẽ nhớ đến người con gái phủ Nam Xương đã sớm được chép vào sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
Đền Vũ Điện được xây dựng ngay sau cái chết oan uổng của bà Vũ Thị Thiết (thế kỷ XV). Ngôi đền linh thiêng với câu chuyện thương tâm của bà Vũ đã từng là đề tài cho nhiều bậc thi nhân như Lê Thánh Tông, Nguyễn Công Trứ, hay Nguyễn Khuyến… với lòng thương tiếc, ước muốn giải oan cho người phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ, sự đồng cảm sâu sắc của người đời đối với nỗi oan trái còn dằng dặc ở trên đời và lòng ngưỡng mộ đối với tấm gương trinh liệt.
Tương truyền, đền bà Vũ đã từng âm phù cho đại quân của vua Lê Thánh Thông thắng trận. Khi đại quân khải hoàn, nhà vua xuống chiếu cho quan dân địa phương Vũ Điện sửa lại ngôi đền khang trang hơn. Thuyền bè qua lại vùng sông nước này thường đến lễ ở đền bà để xin bà phù hộ cho thuận buồm xuôi gió. Vì thế mà đền Vũ Điện đã trở thành điểm du lịch Hà Nam hấp dẫn, có sức thu hút mối quan tâm của nhiều vãn khách xa gần.
11
Đình đá Tiên Phong – Hà Nam
Đình đá Tiên Phong thuộc thôn An Mông, xã Tiên Phong, huyện Duy Tiên, Hà Nam. Từ quốc lộ 1A, đến thị trấn Đồng Văn (thuộc huyện Duy Tiên) rẽ theo đường 60A đi 7km về thị trấn Hòa Mạc, rẽ theo đường 60B đi 6km về Điệp Sơn rồi theo đường liên xã 3km là tới đình.
Đình thờ Nguyệt Nga công chúa, nữ tướng của Hai Bà Trưng. Bà tên thật là Nguyễn Thị Nga, quê ở làng An Mông (còn có tên là làng Mống). Do bà không chịu làm tì thiếp cho Tô Định tham tàn bạo ngược nên bố mẹ bà đã bị giết hại. Nợ nước cộng với thù nhà khiến bà chiêu mộ binh sĩ, lấy mảnh đất quê hương làm căn cứ địa chiến đấu. Hiện nay ở An Mông còn có cánh đồng gọi là Đồng Binh nằm trong bãi sậy, tương truyền là nơi căn cứ địa khi xưa của bà. Năm 40, bà cùng vài nghìn nghĩa quân tình nguyện đi theo Hai Bà Trưng chống lại ách đô hộ của quan lại nhà Hán. Sau khi giành được chính quyền, Hai Bà Trưng phong cho bà là Nguyệt Nga công chúa, cử làm quan tại phủ Lý Nhân. Bà về quê, mở tiệc ăn mừng, lập sinh từ ở bên sông để sau này làm nơi hương khói thờ phụng. Mảnh đất lập sinh từ ấy đến nay vẫn còn ở khu bãi đồi ven sông Châu. Bà còn dạy dân trồng dâu chăm tằm, dệt vải nên người dân nơi đây tôn bà là bà tổ của nghề dâu tằm. Từ nhiều đời nay, trong lễ hội thờ bà cũng như khi tế tằm, dân thường khấn câu:
Cầu cho hòa cốc phong đăng
Cây dâu cũng tốt con tằm cũng tươi
Khi Hai Bà Trưng thất thủ phải gieo mình xuống sông Hát, bà rút chạy về quê và tự tận trên ngã ba sông Mông. Nhân dân lập đền thờ bà, các triều đại đều sắc phong là Nguyệt Nga phu nhân tôn thần.
Đình đá Tiên Phong được sửa chữa lại nhiều lần, đến triều Nguyễn thì tòa tiền đường được xây lại bằng đá còn tòa đệ nhị và chính tấm đều được làm bằng gỗ, mái lợp ngói nam. Đình hiện nay có 3 tòa được kiến trúc theo kiểu chữ công: tiền đường 5 gian, tòa đệ nhị 2 gian, chính tấm 3 gian. Độc đáo nhất là tòa tiền đường bằng đá được làm theo lối chồng rường, mê cốn, có 12 chiếc đại trụ (cột cái). Mặc dù cột cái được làm bằng đá song vẫn được làm theo dáng búp đòng, ở giữa phình to, hai đầu thu nhỏ lại. Hệ thống cột cái, cột quân, cột hiên của đình đá có tới 30 chiếc lớn nhỏ đều được chạm khắc kỳ công thể hiện sự công phu cũng như nghệ thuật chạm khắc tinh vi của cha ông.
Đình đá Tiên Phong là một trong số không nhiều ngôi đình được làm bằng đá còn giữ được đến ngày nay. Đình phải sử dụng hàng trăm khối đá vừa to, vừa dày mới có thể tạo thành năm hàng cột, 6 vì và nhiều xà ngang, xà dọc, chân tảng, mê cốn. Điều đặc biệt là trên các bộ phận bằng đá dễ tạo cảm giác nặng nề đó là các mảng chạm khắc nghệ thuật công phu, tạo cho đình vẻ mềm mại, sự sống động, hấp dẫn. Toà tiền đường của ngôi đình nổi bật với hệ thống cột đá lớn nhưng được thiết kế theo kiểu búp đòng thật mềm mại.
Bốn đại trụ ở hai vì chính giữa được chạm nổi hình rồng cuốn thủy, với những khúc uốn lượn mềm mại, những lườn cây theo nhiều kiểu tự nhiên, cùng với râu tóc, dòng nước bị cuốn trong miệng, hình ảnh con cá chép cong mình như đang bơi theo dòng nước trông tự nhiên. Hai đường cột quân có đường kính 35cm, được tạo dáng bố cục trang trí những băng lá lật cách điệu rất nghệ thuật.
Hàng cột hiên cũng được làm bằng đá, đường kính 25cm nhỏ hơn cột quân nhưng gia công theo nhiều đề tài hấp dẫn như cảnh cây trúc, chim trĩ độc đáo, cảnh mai điểu (cây mai con chim), cảnh tùng lộc (cây tùng và con hươu) và cảnh cúc hóa long. Hệ thống mê nách được nhấn tỉa bởi các mảng triện tầu lá rất hài hòa. Riêng mảng bốn mê ở hai vì gian giữa được trang trí theo kiểu đề tài tứ linh. Ngoài hệ thống cấu kiện đã nêu, đình đá Tiên Phong còn có hàng kẻ hiên cũng bằng đá, tạo dáng mềm mại uyển chuyển của con rồng. Hai thành kẻ cũng như các mảng mê ở hiên được đục chạm các mảng lá lật, cảnh mai hóa long, cúc, trúc hóa long rất công phu.
Ngoài các mảng chạm khắc trên đá, đình đá Tiên Phong còn có một số đồ thờ có giá trị nghệ thuật đáng được lưu ý. Ngai thờ ở hậu cung có kích thước 1,2×0,6×0,6m, được tạo dáng, chạm khắc công phu.
Đình Tiên Phong còn giữ được nhiều đồ thờ tự có giá trị như sập thờ, ngai thờ, kiệu bát cống, một số bức đại tự và nhiều kiếm thờ phục vụ các đội nữ binh trong những ngày lễ hội.
12
Đền Lăng – Hà Nam
Đền Lăng thuộc xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, nằm dưới chân núi Cõi, nơi đây thờ vua Lê Đại Hành cùng hai con của ông là Lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều. Theo ngọc phả, truyền thuyết… thì vị vua thứ nhất được thờ ở đền là Đinh Tiên Hoàng, Hoàng đế có công dẹp loạn cát cứ 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lập ra triều đại phong kiến chính thống vào thế kỷ X.
Đinh Bộ Lĩnh đã cùng Đinh Điền, Đinh Bang về Bảo Thái xưa lập căn cứ, tuyển quân, huấn luyện binh sĩ. Dân địa phương truyền khẩu khu vực vua Đinh đóng quân, sau này lập đền thờ vua trên đỉnh núi Lăng.
Đặc biệt, việc phụng thờ Lê Đại Hành – Hoàng đế cùng hai con là Lê Trung Tông, Lê Ngọa Triều, bởi mối liên quan của Lê Hoàn với nơi này mà thư tịch, truyền thuyết và dấu tích đã thể hiện sâu đậm. Khởi đầu từ việc ông nội Lê Lộc đến định cư ở Bảo Thái (Liêm Cần nay). Sau khi cha mất, Lê Hiền bỏ làng vào Ái Châu lấy vợ họ Đặng rồi sinh ra Lê Hoàn vào ngày mồng mười, tháng Giêng, năm Tân Sửu. Đặc biệt, ngọc phả đã cung cấp những tư liệu quý về khoảng thời gian Lê Hoàn từ Ái Châu trở về quê cũ Bảo Thái, mở trường dạy học, tìm người cùng chí hướng. Ông đã kết giao với Nguyễn Minh là người làng Vực. Lê Hoàn khuyên Nguyễn Minh cùng ông đi phò Đinh Bộ Lĩnh dẹp nội loạn. Ở khu vực này có nhiều dấu tích liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Lê Đại Hành như khu Mả Dấu, khu Dàn Thề. Tương truyền ông nội của Lê Hoàn quê ở làng Bảo Thái có nuôi con hổ trắng ngày ngày cùng đi đổ đó ở cánh đồng. Một hôm ông đi đổ đó sớm, con hổ không nhận ra chủ, nên đã vồ ông, sau đó hổ cõng xác về đặt ở khu đất đầu làng, sáng hôm sau mối xông thành mộ, từ đó người dân nơi đây thường gọi là Mả Dấu.
Ngoài việc phụng thờ các vị hoàng đế triều Đinh, triều Tiền Lê, đền Lăng còn phối thờ hai vị nhân thần là ông Nguyễn Minh cùng vợ là bà Nhữ Đê phò Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn, và một vị thiên thần là Thiên Cương Đại vương. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện còn 36 di tích thờ Lê Hoàn phân bố ở 8 tỉnh: Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Hà Đông (cũ), Sơn Tây (cũ), Thanh Hóa và Hà Nam. Cùng với đền Lăng, đình Ứng Liêm (xã Thanh Hà) cũng thờ nhà vua và đình Cẩm Du (xã Thanh Lưu) phối thờ đều ở huyện Thanh Liêm.
Du lịch Hà Nam về với Đền Lăng – quần thể kiến trúc gồm tòa Tiền đường, Trung đường và Chính tẩm. Tòa Tiền đường thiết kế mái cong, chồng diêm theo phong cách dân tộc. Hai vì gian giữa Tiền đường đậm đặc các mảng phù điêu chạm long, ly, quy rất sinh động. Trên trụ non đấu rế chạm mâm ngũ quả, nổi bật với đào, lựu. Một số mảng mê tạo phù điêu với hình tượng rồng chầu, phượng, hoa cúc tinh xảo. Để gánh 4 trụ non, nghệ nhân xưa chạm bốn con nghê ghé vai đỡ trụ. Trên bộ vì phía Đông có mảng chạm lý thú, đó là một con thú ẩn trong lá sen cách điệu; vì đối diện là hình con hổ ôm một cái đó lớn, bên cạnh một con hổ khác đeo chiếc giỏ ở cổ, như nhắc nhở về chuyện ông nội Lê Hoàn là Lê Lộc làm nghề đơm đó để sinh nhai.
Trung đường và Chính tẩm chung một công trình kiến trúc, vị trí sau tòa Tiền đường, thức kiến trúc thượng rường, hạ kẻ. Điều đặc biệt là: chính điện của tòa Trung đường còn có bức cửa võng, gắn với câu đầu, cột cái. Công trình đục chạm công phu với cảnh lưỡng long chầu nguyệt tinh tế, nghệ thuật, tạo riềm trên, riềm hai bên với những băng lá sòi, những mảng long vân, phượng vũ có sức truyền cảm cao. Trung tâm của võng nổi bốn chữ “Thánh cung vạn tuế” trong khung tròn rất đẹp. Cửa võng được sơn son thếp vàng màu sắc óng ánh, ấm áp giúp cho công trình thêm hấp dẫn.
Với những giá trị nhiều mặt về kiến trúc, nghệ thuật, đặc biệt là sự phong phú của truyền thuyết dân gian và những địa danh, dấu tích liên quan đến một quãng đời quan trọng của Lê Hoàn, đền Lăng từ xưa đã nổi tiếng. Nhiều nhà khoa bảng như Bạch Đông Ôn, Khiếu Năng Tĩnh, Phạm Đình Kính, Vũ Huy Trác…, đặc biệt là Hoàng giáp Lê Trung (thế kỷ XVI) đã tới thăm viếng ngôi đền và để lại cho đời sau những vần thơ đề vịnh giàu chất hoài cổ và suy nghiệm.
Hà Nam có gì? Bạn đang muốn tìm một nơi để giải tỏa tâm hồn nhưng chưa biết đi đầu thì hãy đến với Hà Nam – chuyến hành trình tại đây hứa hẹn sẽ mang đến cho bạn nhiều trải nghiệm thú vị. Tạm quên những điểm du lịch nổi tiếng trước đó và thử đặt chân đến đây xem sao nhé.