HUYỀN THUẬT VÀ CÁC ĐẠO SĨ TÂY TẠNG – ALEXANDRA DAVID NEEL

GIỚI THIỆU SÁCH

Gần 100 năm kể từ ngày ra mắt, Mystyquet et Magiciens du Tibet, cuốn sách vang dội châu Âu của nữ tác giả người Pháp Alexandra David – Neel, mới có dịp đến tay bạn đọc Việt Nam với tên gọi Huyền thuật và các đạo sĩ Tây Tạng . Cuốn sách là một thiên phóng sự đáng kinh ngạc của tác giả trong hành trình xuyên qua vùng đất Tây Tạng để khám phá các huyền thuật của đạo sĩ nơi đây.

 

Ngày nay, có lẽ Tây Tạng không còn là một nơi chốn huyền bí, lạ lùng nữa. Người ta có thể du lịch đến thủ đô Lhasa một cách tương đối dễ dàng, nhưng Tây Tạng ngày nay không còn như Tây Tạng cách đây nửa thế kỷ.

Trước khi qua Tây Tạng, tác giả cuốn sách này, bà David Neel đã là một học giả nổi tiếng về Phật học. Bà nhận thấy truyền thống Phật giáo dù theo Tiểu thừa hay Đại thừa vẫn có những điểm tương đồng, nhưng truyền thống Phật giáo tại Tây Tạng lại dường như khác hẳn nên bà quyết định qua xứ này nghiên cứu, tìm hiểu thêm. Tây Tạng khi đó đang ở trong tình trạng giao thời với nhiều biến động chính trị. Mặc dù quân đội Anh vừa xâm lăng, bắt buộc xứ này phải thông thương với ngoại quốc, nhưng người Tây Tạng vẫn giữ thái độ thù nghịch với tất cả những gì đến từ bên ngoài. Tuy chính sách bế quan tỏa cảng đã bị loại bỏ nhưng nó vẫn được thi hành có phần chặt chẽ hơn.

Trong cuốn Đường mây qua xứ tuyết, bạn đọc đã theo dõi một tu sĩ Phật giáo, Lạt Ma Govinda, đi khắp Tây Tạng sưu tầm kinh điển, tranh ảnh và học đạo, thì trong cuốn Huyền thuật và các đạo sĩ Tây Tạng , xin mời bạn đọc theo dõi cuộc hành trình của bà Alexandra David Neel, một phụ nữ Pháp, đi khắp xứ này với mục đích tìm hiểu và ghi nhận những sự kiện lạ lùng, huyền bí mà chưa một người ngoại quốc nào được chứng kiến. Không giống như Lạt Ma Govinda chỉ chú trọng vào những tài liệu, kinh điển Phật giáo, bà David Neel đã quan sát tất cả các phép thuật huyền bí, phương pháp tu luyện lạ lùng của nhiều tôn giáo khác nhau.

Nữ tác giả Alexandra David Neel đã nỗ lực lý giải những hiện tượng siêu nhiên của huyền thuật Tây Tạng dưới con mắt quan sát nhạy bén và kiến thức thu nhặt được trong hành trình của mình. Xuyên suốt tập sách, tác giả đã kể lại những câu chuyện về bí thuật của các đạo sĩ Tây Tạng, phương pháp tu tập – thiền định của họ và cả những truyền thuyết bà được nghe kể dọc chặng đường.

Với lối trần thuật đậm chất phóng sự du ký, Huyền thuật và các đạo sĩ Tây Tạng không chỉ mở ra cho các độc giả phương Tây đầu thế kỉ 20 cái nhìn rõ nét hơn về Tây Tạng mà còn giúp các nhà nghiên cứu có thêm tư liệu để khảo cứu về năng lực con người. Mặc cho đã trải qua 100 năm kể từ lần đầu xuất bản, cuốn sách vẫn đem đến người đọc sự bất ngờ về Tây Tạng, bởi cho đến tận ngày nay, khi thế giới trở nên rộng mở hơn bao giờ hết thì những câu chuyện huyền bí ấy vẫn cứ mờ ảo như dãy núi Hi Mã Lạp Sơn quanh năm tuyết phủ.

VỀ TÁC GIẢ

Alexandra David Neel là phụ nữ da trắng đầu tiên đã du hành khắp Tây Tạng và đến được thủ đô Lhasa. Bà đã dành ra 14 năm để nghiên cứu về Phật học tại đây, lúc thì trong những tu viện hẻo lánh, khi thì nhập thất trong một hang động trên đỉnh Tuyết Sơn. Trong những tác phẩm viết về Tây Tạng, sách của bà chiếm một vị trí vô cùng quan trọng và được coi như những tài liệu có giá trị vượt thời gian. Phần lớn độc giả đều biết đến cuốn Voyage d’une Parisien à Lhassa (Cuộc hành trình của một phụ nữ Paris qua Tây Tạng), một cuốn sách đã làm say mê hàng triệu độc giả khắp nơi trên thế giới.

Bà được trao giải “Gold Medal of the Geographical Society of France” và được bầu làm Chevalier of the Legion of Honour. Ít lâu sau, bà lần lượt cho ra mắt những cuốn sách viết riêng về những đề tài khác nhau như Initiations lamaiques (Những cuộc điểm đạo xứ Tây Tạng), Magie d’amour et magie noire (Pháp luật về tình ái và tà thuật), Scenes du Thibet inconnu (Phong tục kỳ lạ xứ Tây Tạng), Le lama aux cinq sagesses (Vị Lạt ma có năm phép thần thông) và sau cùng là cuốn Mystiques et magiciens du Thibet ( Huyền thuật và các đạo sĩ Tây Tạng ), nội dung đề cập đến các hiện tượng huyền bí, đi sâu vào thế giới bí mật của các đạo sĩ xứ này. Bà qua đời tại Pháp năm 1969.

 huyền thuật và các đạo sĩ tây tạng 1

TRÍCH ĐOẠN:

Người ta không thể giải thích vì sao Tây Tạng lại có sức hấp dẫn kỳ

lạ như vậy. Nhiều người cho rằng chỉ tại nơi đây người ta mới trải nghiệm

được những sự kiện mầu nhiệm, những hiện tượng siêu nhiên huyền bí vượt

xa sức tưởng tượng của con người. Nhưng “phép lạ” chỉ là “phép lạ” khi

người ta chưa hiểu biết, chưa thể chứng minh hoặc giải thích. Một khi đã

nghiên cứu thấu đáo, đã đạt tới tầm mức hiểu biết chính xác, và biết cách

phát triển các khả năng phong phú sẵn có của con người, thì các hiện tượng

vẫn được xem như là “phép lạ” cũng chỉ là một hiện tượng thông thường

vẫn hằng hiện diện trong vũ trụ mà thôi.

Nguyên Phong

CHƯƠNG 1

Các Tu Sĩ Huyền Môn

Năm 1914, Tây Tạng có sự biến. Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 13

phải lánh nạn qua Ấn Độ. Đây là một dịp may hiếm có để phỏng vấn và tiếp

xúc với nhà lãnh đạo xứ này

,

tôi đã nghĩ như thế. Biết đâu trong cuộc tiếp

xúc, tôi sẽ tìm được lời giải đáp cho những thắc mắc về Phật học của tôi.

Điều tôi không ngờ là tuy phải sống lưu vong nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma

vẫn không chịu tiếp xúc với người ngoại quốc. Khi còn ở trong nước, cung

điện của ngài được bảo vệ vô cùng nghiêm ngặt, chỉ những bậc Lạt Ma

trưởng lão mới được ngài tiếp kiến. Hiện nay, tuy tạm trú tại Bhutan nhưng

ngài cũng không chịu tiếp ai. Cho đến thời điểm đó, tôi vẫn là người phụ nữ

ngoại quốc duy nhất được ngài tiếp kiến. Lý do tại sao ngài chịu tiếp tôi vẫn

là một điều bí ẩn mà tôi không sao tìm được câu trả lời.

Buổi sáng hôm đó, tôi rời Darjeeling đến Kalimpong, nơi ngài tạm

trú. Đó là một dinh thự rất lớn mà quốc vương xứ Bhutan dùng làm nơi

nghỉ mát, và ông đã nhường lại để Đức Đạt Lai Lạt Ma sử dụng. Hai hàng

cờ quạt long trọng được gắn suốt lộ trình dài từ cổng trại đến dinh thự, hàng

trăm cây cờ ghi câu thần chú “Om Mani Padme Hum” bay phần phật trong

gió. Hai bên vệ đường là đoàn ngự lâm quân oai vệ đứng canh phòng làm

gia tăng thêm vẻ uy nghiêm cho chốn này. Người ta nói rằng Đức Đạt Lai

Lạt Ma đã ra lệnh giản hóa đến mức tối đa những đồ vật trưng bày, những

nghi lễ cần thiết trong lúc ngài tị nạn. Nếu như vậy thì tại triều đình Tây

Tạng, những nghi lễ này hẳn phải long trọng và oai nghiêm đến mức độ

nào?

Tôi những tưởng cuộc phỏng vấn sẽ kéo dài một khoảng thời gian,

đủ để tôi có thể đặt nhiều câu hỏi giống như những cuộc phỏng vấn thông

thường, nhưng tôi đã lầm. Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ tiếp tôi trong một thời

gian rất ngắn. Ngài im lặng nghe tôi trình bày vài câu rồi nói ngay:

– Nếu bà muốn biết về Tây Tạng thì bà nên học ngôn ngữ xứ này.

Đó là một câu nói đơn giản, bình thường nhưng về sau tôi mới biết

hiệu nghiệm của nó. Dường như ngài đã tiên đoán được cuộc hành trình của

tôi vào xứ ngài và ngài đã gián tiếp chỉ đường cho tôi. Tuy nhiên, lúc đó tôi

không chú trọng gì nhiều đến lời khuyên này. Tôi chỉ muốn có dịp quan sát,

nghiên cứu để viết một thiên phóng sự về phong tục và văn hóa Tây Tạng

mà thôi.

– Được lắm, nếu vậy tôi sẽ cho Dawasandup đi theo bà để thông

dịch. Ông ấy sẽ đưa bà đến Gangtok… Chúc bà may mắn.

Ngài khẽ phất tay, một tiếng trống vang lên và buổi phỏng vấn chấm

dứt trước khi tôi có thể nói thêm một câu gì khác.

Trước khi rời Kalimpong, tôi có dịp chứng kiến một nghi thức ban

phúc lành của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Không giống như việc ban phúc lành

của những vị giáo hoàng tại La Mã, thường giơ tay ban phúc chung cho

hàng vạn người, Đức Đạt Lai Lạt Ma lại ban phúc riêng cho từng người và

áp dụng một nghi thức nhất định. Đối với những tăng sĩ tu hành đã lâu, các

vị Lạt Ma trưởng lão thì ngài đặt hẳn hai bàn tay lên đầu người đó. Đối với

những quan lại, tướng sĩ tùy tùng, sĩ quan chỉ huy quân đội thì ngài chỉ đặt

một tay lên đầu người kia mà thôi, và tùy theo chức vị cao thấp mà ngài đặt

cả bàn tay, vài ngón tay hoặc có khi chỉ một ngón tay. Sau cùng, đối với dân

chúng, ngài cầm một lá cờ nhỏ đặt nhẹ lên đầu hoặc lên vai từng người một.

 huyền thuật và các đạo sĩ tây tạng 2

Dù gì thì đối với người Tây Tạng, nghi thức ban phúc lành này là hết sức

quan trọng vì họ tin rằng sức mạnh huyền bí của Đạt Lai Lạt Ma sẽ truyền

vào người họ và tạo ra sự an lành thuần khiết, cho họ nhiều lợi lạc. Hàng

ngàn người đã sắp hàng từ sớm để chờ đến lượt được ban phúc lành. Không

những thế, có rất nhiều người Ấn, người Hồi, người Sikkim, Bengal cư ngụ

quanh vùng cũng sắp hàng chung với người Tây Tạng để nhận lễ ban phúc

này.

Trong khi quan sát cuộc lễ, tôi bỗng thấy một tu sĩ tóc rối bù, quần

áo rách rưới, trên vai đeo một cái túi lớn, thản nhiên nhìn cảnh tượng trên

một cách khinh khỉnh. Tôi ngạc nhiên bèn hỏi Dawasandup thì ông này cho

biết đó là một tu sĩ thuộc nhóm Naljorpa, một môn phái chuyên về huyền

thuật. Thấy tôi có vẻ chú ý đến người nọ, Dawasandup vội chạy đến hỏi han

rồi quay về cho biết:

– Ông ta người xứ Bhutan tu theo tôn chỉ phái Naljorpa. Tu sĩ phái

này thường rày đây mai đó, không bao giờ cư ngụ ở nơi chốn nào nhất định.

Có khi họ tá túc ở một ngôi chùa, khi lại lánh mình trong các động đá hẻo

lánh. Hiện nay vị này đang tạm trú tại một ngôi chùa nhỏ gần đây.

Thái độ kỳ lạ của tu sĩ nọ khiến tôi thắc mắc mãi nên chiều hôm đó

tôi bèn rủ Dawasandup đến ngôi chùa kia. Vừa vào đến chánh điện, chúng

tôi đã thấy vị tu sĩ nọ đang dùng cơm ở một góc. Chúng tôi đến chào hỏi

một cách lễ phép nhưng vị tu sĩ ấy không trả lời, có lẽ vì miệng còn đầy

cơm hoặc có thể vì một lý do nào khác. Trong lúc tôi đang lúng túng chưa

biết phải mở đầu như thế nào thì vị tu sĩ kia chăm chú nhìn tôi một cách kỳ

lạ rồi lẩm bẩm vài câu làm Dawasandup phải nhăn mặt khó chịu.

– Ông ta nói gì vậy?

– Có lẽ bà không nên để ý đến những câu nói bất lịch sự như thế

làm gì…

– Nhưng ông ta đã nói gì?

– Thưa bà, tôi không biết có nên thông dịch hay không?

– Tại sao lại không? Ông cứ dịch đi chứ.

Dawasandup tỏ ra ngần ngại một lúc rồi thông dịch:

– Ông ta nói rằng “Cái con mẹ ngu đần này đến đây làm gì?”.

Tôi không ngạc nhiên vì câu nói bất lịch sự đó. Từ lâu tôi vẫn nghe

kể rằng nhiều vị thầy Á Đông đôi khi sử dụng những lời lẽ xấc xược, kỳ lạ

đối với những người đến cầu đạo để thăm dò phản ứng của họ. Tôi nhờ

Dawasandup thông dịch:

– Ông hãy hỏi dùm tôi tại sao sáng nay trong lễ ban phúc lành trang

nghiêm như thế mà tu sĩ này có vẻ như khinh bỉ, coi thường.

Vừa nghe Dawasandup nói xong, tu sĩ bật cười:

– Toàn một đám ăn hại cứ tưởng như mình quan trọng lắm! Chẳng

qua chỉ là một lũ giòi bọ bám vào cục phân thì quý hóa cái nỗi gì…

Hiển nhiên buổi nói chuyện đã đi vào một ngã rẽ bất ngờ, nhưng tôi

đã chuẩn bị trước với những tu sĩ thuộc loại bất thường như vậy. Tôi bèn

hỏi ngay:

– Nói như vậy thì liệu ngài có sạch sẽ hơn cái đống phân kia

không?

Tu sĩ phá lên cười ngạo mạn:

– Kẻ nào càng né tránh nó bao nhiêu càng lún sâu vào nó bấy

nhiêu. Phần ta thì cứ lăn lộn trong đám phân đó như một con lợn, ta ăn phân

rồi tiêu hóa nó thành cát vàng, thành nước thánh. Lấy cứt chó biến thành

những ngôi sao trên trời, đó mới là công phu hành đạo…

Dĩ nhiên cách ăn nói quái gở lạ lùng như vậy chỉ có thể thốt ra bởi

những người đặc biệt, nhưng tôi hỏi lại:

– Những người dân quê hiền lành đến xin ban phúc lành thì có gì

quá đáng đâu mà ngài lại có vẻ coi khinh họ thế? Họ chỉ là những người

chất phác mong tìm được nguồn để nương tựa vào.

Vị tu sĩ cắt ngang câu nói của tôi:

– Bà thì biết gì mà nói! Một người muốn ban phúc cho ai thì phải

có quyền năng đó trước đã. Nếu ông Đạt Lai Lạt Ma đã sở hữu những

quyền năng thực sự thì tại sao ông ta lại cần lực lượng để chống cự lại kẻ

đối nghịch với mình? Tại sao ông ta không sử dụng cái quyền phép đó để

tạo nên những màng lưới vô hình ngăn cản kẻ đối nghịch xâm phạm vào

lãnh thổ của ông ta? Ta đây tuy chỉ là kẻ mới học đạo tầm thường nhưng đã

có thể…

 huyền thuật và các đạo sĩ tây tạng 3

Tu sĩ không nói tiếp như cố ý để tôi tự đi đến kết luận về quyền

năng của ông ta. Dĩ nhiên Dawasandup rất khó chịu khi nghe câu nói xấc

xược đó vì ông rất kính trọng Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng ông cũng không

dám lên tiếng phản đối vì sợ vị tu sĩ kỳ quái này. Thấy câu chuyện có vẻ

căng thẳng và không đi đến đâu, tôi bèn đứng dậy ngỏ ý kiếu từ và theo thói

quen thông thường, tôi đưa cho Dawasandup một ít tiền lẻ để cúng dường

vị tăng sĩ kia. Vị tu sĩ tỏ ra khó chịu, ông ta từ chối không thèm nhận số tiền

cúng dường của tôi. Thấy vậy, Dawasandup bèn đặt đại số tiền lên mặt bàn

gần đó. Vị tu sĩ nhếch miệng cười, chỉ phất nhẹ tay áo thì Dawasandup đã

bị hất tung lên đập mạnh thân người vào bức tường gần đó.

 Ông ta ôm ngực

nhăn nhó trong khi vị tu sĩ kia thản nhiên đứng dậy bỏ đi. Tôi ngạc nhiên:

– Ông bị sao vậy?

– Thưa bà, tôi vừa bị đánh trúng ngực, bà không thấy sao?

– Cái gì? Ai đánh ông?

– Còn ai nữa! Vị tu sĩ kia chứ ai!

– Nhưng ông ta ngồi cách ông cả mấy thước kia mà, tôi đâu thấy

ông ta đụng vào người ông đâu?

– Bà không biết đâu, có nói bà cũng chẳng thể hiểu được. Tôi

không biết thế nào nữa…

– Có lẽ do ông ngồi lâu nên khi đứng lên thì bị xây xẩm mặt mày

đấy thôi.

Tuy nhiên, Dawasandup cứ nhăn nhó và lắc đầu quầy quậy. Ông ta

vạch áo ra và tôi thấy rõ trên ngực ông có vết tím bầm như bị vật gì đó đập

trúng. Tôi hết sức ngạc nhiên về chuyện này. Rõ ràng Dawasandup đứng

cách xa vị tu sĩ nọ cả mấy thước và tôi thì ngồi chính giữa, thế mà tại sao

ông ta bị đánh tím cả ngực như thế kia? Phải chăng có một quyền năng nào

đó có thể đả thương người như vậy? Hay biết đâu Dawasandup bị trúng gió

bất thường?

Hôm sau, tôi và Dawasandup lên đường đi Gangtok. Đó là một con

đường đèo nhỏ hẹp dẫn quanh rặng Tuyết Sơn. Ở trên độ cao lúc nào khí

hậu cũng ẩm ướt, mây trắng vờn quanh miệng vực khiến người ta có cảm

tưởng như đang đi trên mây. Một bầu không khí lạ lùng dường như bao phủ

miền này khiến người đi qua cứ cảm thấy rờn rợn. Tây Tạng là nơi mà

những tín ngưỡng cổ như Bon Pa, Pawos, Yabas với những pháp sư, phù

thủy chuyên thực hành huyền thuật hoạt động mạnh mẽ. Dù Phật giáo được

xem là tôn giáo chính nhưng tại những vùng hẻo lánh, huyền thuật vẫn

được thực hành một cách công khai.

Trước khi đến Gangtok, chúng tôi gặp

một trận mưa đá rất lớn, những hạt mưa đá to bằng nắm tay ào ào trút

xuống khiến chúng tôi phải tìm nơi ẩn tránh, chờ cơn mưa dứt mới tiếp tục.

Người Tây Tạng tin rằng những hiện tượng thiên nhiên như mưa, gió, sấm

chớp đều có liên quan đến quỷ thần. Mưa đá được xem như là vũ khí lợi hại

mà các pháp sư sử dụng để ngăn cản khách hành hương đến gần hang động

của họ. Ít lâu sau, Dawasandup kể với tôi rằng ông đã đến hỏi ý một pháp

sư về trận mưa đá này. Phải chăng đó là triệu chứng bất thường, một điềm

gở vì ông ta đã đưa một người ngoại quốc vào đây?

Vị pháp sư cho biết các

thần linh sẽ không gây khó dễ cho tôi nếu tôi chỉ đi ngang qua, nhưng nếu

tôi có ý định sống luôn ở đó thì lại là chuyện khác.

Sikkim là một quốc gia nhỏ bé nằm sát dưới chân rặng Tuyết Sơn.

Dân cư trong vùng hết sức nghèo nàn, đa số sống bằng nghề du mục và cày

cấy. Mặc dù quốc gia này có khá nhiều chùa chiền, tu viện nhưng tôi đã thất

vọng ít nhiều khi thăm viếng những nơi này. Phần lớn các tăng sĩ tại đây

đều thất học, không biết đọc viết và không tỏ ra sốt sắng gì trong việc tu

thân hay cầu giải thoát. Vì thất học, các tăng sĩ này chỉ học thuộc lòng một

số kinh điển từ chương và chú trọng nhiều đến các nghi thức cúng lễ, ma

chay, lấy lá số chiêm tinh, chữa bệnh bằng bùa phép, cầu đảo, lên đồng,

đuổi tà ma yêu quái để giúp cho việc buôn bán thêm thịnh vượng v.v…

 huyền thuật và các đạo sĩ tây tạng 4

nhiên những điều này hoàn toàn trái với giáo lý của Đức Phật nhưng người

ta vẫn thực hành như là một tục lệ hơn là một nghi lễ tôn giáo. Trong các

nghi thức cúng lễ thì ma chay được xem là quan trọng nhất. Mỗi khi có

người chết, người thân thường mời các vị tăng đến nhà cầu nguyện, rồi sau

đó phải thết đãi các vị này. Do nghèo đói, thiếu ăn nên đa số các tăng sĩ chỉ

mong có dịp được đi độ đám. Trong dịp thăm viếng tu viện, tôi nghe thấy

các tăng sĩ vui vẻ kháo nhau rằng “Hôm nay trong làng có người chết đấy”.

Người khác reo lên “Hay quá, như vậy hôm nay lại được ăn thịt rồi”. Theo

đúng giới luật, các tăng sĩ phải kiêng sát sinh, cữ thịt cá nhưng nhiều người

đã không tuân giữ được như vậy, dĩ nhiên họ thường nêu ra nhiều lý do biện

minh cho chuyện này.

Tại các làng mạc hẻo lánh, các Lạt Ma thường phải cạnh tranh với

các thầy phù thủy, pháp sư huyền thuật về mọi phương diện. Vì Phật giáo là

quốc giáo nên về nguyên tắc, các Lạt Ma có nhiều uy thế và quyền hành,

thế nhưng các pháp sư lại được dân chúng tin tưởng nhiều hơn trong lĩnh

vực trừ tà, chữa bệnh. Khi thực hiện nghi lễ cầu nguyện cho người chết, các

Lạt Ma luôn luôn chiếm ưu thế vì họ biết cách hướng dẫn linh hồn người

chết qua cõi âm. Người Tây Tạng tin rằng khi chết, linh hồn sẽ rời thể xác

qua một lỗ nhỏ trên đỉnh đầu. Nhưng không phải ai cũng chết một cách dễ

dàng.

Có nhiều người vì nghiệp nặng, cứ trằn trọc mãi mà không sao chết

được, hoặc tuy thể xác đã chết nhưng hồn không thể chui ra khỏi thể xác

nên người đó cứ ở trong tình trạng không sống mà cũng không chết. Muốn

được siêu thoát, họ phải mời các Lạt Ma đến làm nghi thức hướng dẫn đặc

biệt.

Hôm đó tôi đi dạo chơi phía sau một ngôi chùa cổ. Đang đi, tôi bỗng

nghe thấy có tiếng kêu kỳ lạ ở đâu vọng lại. Tò mò, tôi rảo bước về hướng

đó thì thấy hai vị Lạt Ma đang xếp bằng, đắm mình trong một trạng thái

như thiền định. Một người phát ra tiếng kêu “Hik”, người kia im lặng vài

giây rồi cũng phát ra tiếng kêu tương tự. Cứ thế họ thực hành cách phát âm

này trong một lúc khá lâu. Họ tỏ ra hết sức cố gắng để phát âm cho đúng.

Một người đưa tay lên cổ, nhấn mạnh vào yết hầu như để phát âm cho

đúng, khuôn mặt ông ta nhăn nhó có vẻ như đau đớn, rồi thổ ra một đống

máu. Vị Lạt Ma kia lắc đầu nói câu gì đó mà tôi không nghe rõ, vị này bèn

đứng dậy đi ra sau chùa. Đến khi đó tôi mới nhìn thấy một cọng rơm dài

cắm trên đỉnh đầu vị tăng nọ.

Tại sao họ lại phát ra những âm thanh kỳ lạ như vậy? Họ đang tập

luyện phương pháp gì? Tại sao trên đầu họ lại cắm một cọng rơm dài? Khi

nghe tôi thuật lại chuyện này, Dawasandup thản nhiên cho biết đó là

phương pháp hướng dẫn người chết. Âm thanh mà hai Lạt Ma đang tập phát

âm có tác dụng khai mở cái lỗ nhỏ trên đỉnh đầu để linh hồn theo đó mà

thoát ra ngoài.

Sử dụng âm thanh là một bí thuật quan trọng được giảng dạy

rất kỹ trong các tu viện Tây Tạng. Chỉ những Lạt Ma sau nhiều năm khổ

luyện mới có thể phát âm thật chính xác. Về nguyên tắc, họ phải phát âm từ

“hik” và sau đó là từ “phaat” thì mới đúng. Dĩ nhiên khi thực hành, họ

không được phát âm từ “phaat” vì nếu làm như thế thì chính hồn của họ sẽ

lìa khỏi xác ngay. Do đó, họ chỉ tập phát âm riêng từng từ mà thôi. Khi phát

âm từ “kik”, một lỗ nhỏ trên đỉnh đầu sẽ được khai mở nên họ đã cắm vào

đó một cọng rơm dài, tùy theo cường độ phát âm mà lỗ nhỏ này sẽ mở to ra

hay khép lại. Tùy theo sự rung động của cọng rơm kia mà họ biết mình đã

gần đạt đến mục đích hay chưa.

Điều này thoáng nghe có vẻ vô lý nhưng

nếu nghiệm kỹ nó cũng có lý phần nào. Nếu một âm thanh phát ra đúng

cách, nó có thể làm vỡ một cái ly thủy tinh hay tạo những rung động trên

mặt cát, thì biết đâu nó cũng có thể khai mở được một lỗ trên sọ người?

Dawasandup không chỉ là một người thông ngôn thuần túy mà còn

là một môn sinh huyền thuật. Ông đã giúp đỡ nhiều học giả Tây phương

nghiên cứu các tài liệu huyền bí và đã đích thân dịch bộ Tử Thư (Bardo

Thodol) ra ngoại ngữ. Ông cho tôi biết ông chuyên nghiên cứu những cõi

giới vô hình, thế giới bên kia cửa tử, giao thiệp với các vị nữ thần Dakini

trong thiên giới, nhưng dĩ nhiên người ta không thể sinh nhai bằng việc

nghiên cứu này nên ông đã xin vào trường quốc gia hành chính tại

Darjeeling và trở thành một công chức.

Dawasandup kể rằng khi còn trẻ, ông theo học với một vị Lạt Ma

già ẩn cư trong động đá. Một hôm, có một môn đệ từ xa về thăm thầy và để

tỏ lòng biết ơn, người kia đã trao cho thầy một gói bạc lớn để chi dùng. Một

môn đệ khác nổi lòng tham, lợi dụng lúc không có ai ở gần thầy đã đâm vị

Lạt Ma này một nhát xuyên tim để cướp gói bạc. Vị Lạt Ma già đau đớn

nhưng cố gắng tập trung nghị lực để nhập thiền ngay vì khi nhập thiền

người ta có thể quên được cảm giác đau đớn của thể xác. Khi những đệ tử

khác trở về động, họ thấy vị Lạt Ma già đang nằm thiếp đi trên một vũng

máu lớn, lưỡi dao còn cắm sâu vào ngực. Họ vội vã tìm cách cứu chữa

nhưng vô hiệu vì lưỡi dao cắm quá sâu. Một lúc sau, vị Lạt Ma xuất thiền,

các đệ tử xúm lại hỏi, ông mới kể lại sự tình. Mọi người nổi giận muốn đuổi

theo kẻ phản thầy kia nhưng vị Lạt Ma già đã ngăn lại.

Ông nói “Giờ đây

hắn chưa thể đi xa được, nếu bị bắt lại thì chắc chắn sẽ có nhiều hậu quả

không tốt. Phản thầy và sát nhân là tội rất nặng, nếu bị bắt y khó lòng thoát

chết. Phần ta bị như thế này âu cũng là nghiệp quả gây ra từ trước và ta cam

chịu. Tuy nhiên, ta cấm các con không được đuổi theo kẻ sát nhân kia. Ta

hy vọng theo thời gian nó sẽ biết hối lỗi, cải tà quy chánh và trở thành một

người tốt”. Nói xong, vị Lạt Ma nhắm mắt từ trần.

Dawasandup kết luận “Thầy tôi là một người cao thượng, người biết

tha thứ cho kẻ thù nhưng tôi biết mình không theo được như thế. Sau khi

thầy tôi qua đời, học trò mỗi người tản mát một nơi, kẻ làm ruộng, người đi

buôn, còn tôi thì làm công chức”.

Dawasandup là một “con mọt sách”. Ông đọc rất nhiều và đọc bất

cứ cái gì có thể đọc được. Ông đọc một cách say mê, quên tất cả mọi sự

xung quanh. Khi vớ được một quyển sách nào thì việc gì cũng bỏ qua một

bên, nếu thế giới có sập ông cũng không cần biết.

Do đó, tuy làm công chức

lâu năm nhưng ngạch trật của ông vẫn còn rất thấp. Dĩ nhiên ông không hài

lòng chút nào nên thường mượn rượu để quên, nhưng càng uống ông càng

bất mãn, càng bất mãn ông càng tức giận, và càng giận ông lại càng uống

nhiều. Sau khi quen biết tôi một thời gian, Dawasandup được bổ nhiệm làm

giáo sư dạy sinh ngữ cho một trường trung học tại Gangtok, nhưng ông

dành nhiều thì giờ trong thư viện hơn là lớp học. Các học trò “rắn đầu biếng

học” được dịp thường lêu lổng phá phách làng xóm hoặc đi thả diều trong

giờ học.

Dĩ nhiên cũng có khi Dawasandup “nổi cơn” rời khỏi thế giới sách

vở của thư viện, trở về với lớp học và lúc đó ông trở thành hung thần của

đám học trò. Ông thường bắt học trò xếp hàng dọc để khảo bài. Đứa nào

không trả lời được bị xếp qua một bên để những đứa trả lời đúng cầm roi

quất lia lịa, quất cho đến khi bật máu mới thôi. Nếu quất nhẹ thì

Dawasandup đứng phía sau với một cây gậy khổng lồ sẵn sàng nhè đứa cầm

roi mà đập. Trong buổi viếng thăm ông, tôi đã vô tình chứng kiến phương

pháp giáo dục này. Tôi bèn can thiệp với chính quyền địa phương để đưa

ông về làm một công việc ít “tai hại” hơn như việc soạn từ điển.

Chỉ một

thời gian ngắn ông đã hoàn tất cuốn từ điển Anh – Tạng đầu tiên của thế

giới. Ông được mời làm giáo sư Tạng ngữ cho đại học Calcutta, nhưng tôi

nghe kể rằng ông vẫn đối xử với các sinh viên tại đây giống như các học

sinh trung học, nhưng đó là chuyện về sau…

 

MỤC LỤC

Tiểu Sử Tác Giả

Vào Tập

Chương 1:

Các Tu Sĩ Huyền Môn

Chương 2:

Đường Vào Tây Tạng

Chương 3:

Huyền Thuật Và Ma Thuật

Chương 4:

Các Vị Tổ Mật Tông

Chương 5:

Các Bộ Môn Huyền Thuật Khác

Chương 6:

Lý Thuyết Và Thực Hành

Đoạn Kết

 thông tin cuối bài viết